PHÁT HUY TRUYỂN THỐNG ĐOÀN KẾT, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO, DỰA VÀO DÂN ĐỂ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2001-2005)
Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2001-2005)  
Đại hội Đảng bộ Thị xã Trà Vinh lần thứ VIII diễn ra trong bối cảnh nước ta thực hiện công cuộc đổi mới được 15 năm, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) và đã giành được nhiều thành tựu quan trọng. Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, cách mạng Việt Nam đứng trước thời cơ và vận hội mới, song cũng còn không ít những thử thách, cam go.
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22-5-2000 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta, và theo hướng dẫn của Tỉnh ủy Trà Vinh về việc tiến hành Đại hội Đảng các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã Trà Vinh lần thứ VIII nhiệm kỳ 2001-2005 được tiến hành từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 11 năm 2000. Dự Đại hội có 148 đại biểu đại diện cho 1.196 đảng viên từ 36 chi, đảng bộ cơ sở thuộc đảng bộ thị xã. Đại hội đã vinh dự được đón đồng chí Nguyễn Tâm Quốc, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Trà Vinh đến dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội được đón các đồng chí đại diện các ban, các đơn vị chức năng của Tỉnh ủy về dự Đại hội.
Với tinh thần “dân chủ, tập trung, đoàn kết, trí tuệ, đổi mới và trách nhiệm”, Đại hội nghiêm túc đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng bộ Thị xã Trà Vinh.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện của nhiệm kỳ khóa VII, phân tích sâu sắc những ưu điểm và khuyết điểm, những dự báo về khó khăn và thuận lợi trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đại hội đã đề ra các mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn 2001-2005 là: Giá trị tổng sản phẩm nội địa GDP tăng binh quân 13,5%- 14%/năm. Đến năm 2005, tỷ trọng cơ cấu ngành kinh tế thị xã: dịch vụ: 60,74%; công nghiệp - xây dựng: 29,49%, nông nghiệp - thủy sản: 9,77%; thu nhập bình quân đầu người tăng 1,7 lần so với năm 2000 (678 USD/ người/năm). Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo mức thu nhập dưới 150.000 đồng/người/tháng đối với 7 phường và dưới 120.000 đồng/người/tháng đối với xã Long Đức), còn 6,5 - 7% (dưới 1.000 hộ) năm 2005. Giảm tỷ lệ lao động không có việc làm còn 5% năm 2005. Đến năm 2005, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1%. Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong độ tuổi đạt trên 85%. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 19%. Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 98%. Tỷ lệ hộ sử dụng nước máy đạt 85% (nước sạch đạt 95%). Giữ vững ổn định an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Đại hội cũng đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra: Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế của thị xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh năng lực sản xuất mới, tăng năng suất - chất lượng - khối lượng hàng hóa có giá trị và phù hợp với nhu cầu thị trường; Hai là, tăng cường công tác quản lý đô thị, xây dựng thị xã trật tự và văn minh; Ba là, gắn phát triển kinh tế với giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc về văn hóa - xã hội; Bốn là, giữ vững ổn định an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; Năm là, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, củng cố tăng cường khối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, chính quyền với nhân dân...
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Trà Vinh giai đoạn 2001-2005 gồm 33 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ có 11 đồng chí; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Trà Vinh gồm 16 đại biểu chính thức, 3 đại biểu dự khuyết.
Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Trà Vinh đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Phong (Tư Phong) làm Bí thư Thị ủy, các đồng chí Nguyễn Thành Tẩm (Ba Tẩm) và Phan Hải được bầu làm Phó Bí thư Thị ủy.
Thắng lợi của Đại hội là nguồn sức mạnh to lớn để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ và nhân dân toàn thị xã nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bước đầu tạo sự chuyển biến mới trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Trong giai đoạn 2001-2005, bám sát chủ trương của Trung ương và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, phát huy kết quả đạt được, với tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu để xây dựng thị xã ngày một phát triển, Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh đã phấn đấu khắc phục khó khăn và đã đạt được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị vững mạnh.
1. Lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường an ninh - quốc phòng
Trong 5 năm 2001-2005, thị xã Trà Vinh đã tạo điều kiện tốt nhất để hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, của Trung ương đóng trên địa bàn, qua đó góp phần tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế hợp tác, cùng phát triển. Thị xã cũng đã có những biện pháp để vận động cán bộ, công chức và nhân dân tham gia mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa; đề ra chỉ tiêu tập hợp từ 80% trở lên các hộ nông nghiệp và 50% hộ kinh doanh cá thể vào các loại hình hợp tác đa dạng để giúp nhau phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời, yêu cầu mỗi phường, xã ít nhất phải xây dựng 1 hợp tác xã hoạt động đúng luật để làm trụ cột tập hợp các hộ cá thể và liên kết với các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Thị xã cũng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, bên cạnh đó chọn và tạo điều kiện tốt nhất cho một số doanh nghiệp cần được ưu tiên và có điều kiện để trở thành doanh nghiệp mạnh để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của thị xã.
Sự chỉ đạo chiến lược đó của Thị ủy đã giúp cho kinh tế thị xã Trà Vinh liên tục tăng trưởng ở mức khá cao. GDP tăng bình quân 14,62%/năm, đạt 101,12% so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ VIII đề ra, tăng 1,47% so với giai đoạn 1996-2000. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng giá trị công nghiệp - xây dựng từ 25,41% (năm 2001) tăng lên 31,23% (năm 2005; dịch vụ từ 57,28% (năm 2003) tăng lên 59,03% (năm 2005; nông nghiệp - thủy sản từ 14,15% (năm 2001) giảm còn 9,74% (năm 2005); như vậy, công nghiệp - xây dựng và nông nghiệp - thủy sản đều vượt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội đề ra, nhưng ngành dịch vụ thì chưa đạt. Số lượng, quy mô và trình độ của các loại hình doanh nghiệp dân doanh được nâng lên. Kinh tế hợp tác xã, kinh tế trang trại được quan tâm củng cố, tạo điều kiện phát triển. Năm 2003, thị xã có 14 hợp tác xã hoạt động, tổng vốn điều lệ 22,520 tỷ đồng với 476 xã viên, giải quyết việc làm cho trên 500 lao động. Năm 2004, thị xã có 15 hợp tác xã và 4 quỹ tín dụng nhân dân với 2.683 xã viên, tổng vốn điều lệ 6,607 tỷ đồng; có 43 trang trại với tổng vốn đầu tư trên 7 tỷ đồng. Năm 2005, kinh tế hợp tác, hợp tác xã tiếp tục được duy trì; có 17 trang trại trong số 44 trang trại đạt doanh thu hằng năm từ 100 đến 150 triệu đồng/trang trại.
Nhận thức rõ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị xã, Thị ủy đã có những chỉ đạo cụ thể nhằm phát triển hiệu quả lĩnh vực này. Thị ủy đã chỉ đạo chính quyền quy hoạch chi tiết xây dựng các cụm sản xuất công nghiệp tập trung của thị xã theo hướng nằm gần trục giao thông thủy bộ (mỗi khu vực trên dưới 10ha) theo đúng quy trình. Khuyến khích đầu tư phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp có sản phẩm tốt và có triển vọng phát triển. Động viên hơn 10% chủ cơ sở có máy móc lạc hậu tự đầu tư thực hiện đổi mới thiết bị hiện đại; nâng chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm lương thực, thực phẩm chế biến để mở rộng thị trường, tăng năng lực cơ khí sửa chữa để năm 2005 đáp ứng nhu cầu sửa chữa hoàn chỉnh tại chỗ nhiều loại máy nông - ngư nghiệp và phương tiện giao thông. Lựa chọn, tập trung đầu tư phát triển từ 1 đến 2 cơ sở công nghiệp hiện đại/năm, sản xuất những mặt hàng có thị trường tương đối ổn định như: chế biến thủy sản xuất khẩu (tôm, cá, cua, nghêu), chế biến lương thực xuất khẩu (gạo, bánh tráng), chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi tôm - cá công nghiệp, chế biến dầu ăn, thực vật (dầu dừa, dầu phộng), chế biến gỗ từ các cây phân tán ở địa phương… Phát huy tiềm lực của các hộ, nhất là những hộ có khả năng về vốn, có mối quan hệ với các doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh... Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính; phân công cán bộ có năng lực để triển khai thực hiện từng dự án đầu tư phát triển; từng tháng, quý, các bộ phận có liên quan tổng hợp, xây dựng phương án tổng thể chỉ đạo phát triển sản xuất trên địa bàn. Thị ủy chỉ đạo sớm xây dựng đề án quy hoạch và phương án tổng thể về đầu tư phát triển ngành công nghiệp xây dựng; đồng thời đã đề ra phương hướng chọn một số loại hình doanh nghiệp phù hợp để tập trung chỉ đạo và tổ chức lại lực lượng, hỗ trợ họ về thủ tục vay thêm vốn, mời gọi và đào tạo cán bộ, chuyên gia giỏi để hình thành những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường xây dựng ở tỉnh. Thị ủy cũng chỉ đạo tổ chức lại thành những hội nghề, làng nghề đối với một số nghề truyền thống và dịch vụ mới có quy mô nhỏ cần cho đời sống nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ vốn để phát triển.
Nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ nên sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của thị xã Trà Vinh tiếp tục phát triển. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị sản xuất tăng nhanh; đến năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của thị xã đạt 696 tỷ đồng, bằng 96,5% kế hoạch, tăng 16,19% so với năm 2004. Số cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng có sự gia tăng, năm 2005 có 601 cơ sở sản xuất với 3.387 lao động.
Một số mặt hàng truyền thống của thị xã có bước phát triển như: patê, chả lụa, lạp xưởng, bánh kẹo, nước đá... Công nghệ hút chân không đã được đưa vào sản xuất lạp xưởng tại thị xã. Một số ngành nghề có chất lượng sản phẩm được nâng lên và có nhiều triển vọng phát triển như: than gáo dừa, các sản phẩm cơ khí, sản xuất và gia công cửa sắt, cửa nhôm...; một số ngành có sản phẩm mới đang phát triển như: nước đá tinh khiết, cơ sở cán tôn, cơ sở sản xuất dép xốp, nước rửa chén... Năm 2004, thị xã có một mặt hàng mới được Hội đồng thẩm định chất lượng cấp tỉnh công nhận và được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước là sản phẩm tôn màu.
Tuy kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, nhưng thị xã chưa tổ chức sơ kết được các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế và đề ra được kế hoạch cụ thể để hỗ trợ cho các loại hình tổ chức kinh tế, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã xác định cần được ưu tiên. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và năng lực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm. Trong 5 năm, thị xã đã hoàn thành nâng cấp bờ bao ấp Sa Bình; xây dựng được 2 trụ sở ủy ban nhân dân khóm ở phưòng 1. Thị xã cũng đã triển khai một số công trình như giải phóng mặt bằng để tiến hành thi công chợ Nhà Vựa, xây dựng chợ phường 9, hợp đồng với Công ty cổ phần Viễn Đông (Thành phố Hồ Chí Minh) cải tạo, nâng cấp và đưa vào hoạt động Trung tâm thương mại thị xã, chi trả đền bù thiệt hại và triển khai thực hiện từng phần dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cụm dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp phường 4, chi trả bồi hoàn cho Dự án kênh lộ cầu Tréo....
Là một trong hai thế mạnh của địa phương, thương mại - dịch vụ được Thị ủy quan tâm và tạo điều kiện cho phát triển. Thị ủy đã đề ra các chủ trương quan trọng để thúc đẩy thương mại - dịch vụ phát triển như: (1) Quy hoạch chi tiết đầu tư xây dựng, nâng cấp và tổ chức lại việc quản lý mua bán ở các chợ, bảo đảm vệ sinh, an toàn, trật tự, văn minh. (2) Đề xuất với tỉnh phân công, phân cấp cho thị xã nguồn kinh phí để lập quy hoạch các ngành kinh tế, lập dự án đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng; chỉ đạo cho phép vay vốn ưu đãi, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc về vay vốn đầu tư, thủ tục về chuyển mục đích và giao quyền sử dụng đất, cho phép thị xã được tham gia ngay từ đầu trong việc xây dựng các phương án tổng thể về đầu tư tín dụng. (3) Thực hiện linh hoạt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “lấy công trình nuôi công trình”, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, áp dụng từng bước phương thức hạch toán kinh doanh đối với những công trình có khả năng sinh lợi; rút kinh nghiệm từ chủ trương lấy chợ nuôi chợ và đối ứng vốn xây dựng bê tông đường giao thông nông thôn, tiến hành huy động vốn đối ứng của nhân dân và các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các công trình công cộng. (4) Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển một số ngành kinh doanh vật tư xây dựng, vật tư phục vụ sản xuất nông - ngư nghiệp, các đại lý mua bán, kinh doanh vận tải, kinh doanh xây dựng các loại, kinh doanh du lịch... đang là thế mạnh của thị xã. (5) Chủ động đề xuất với Úy ban nhân dân tỉnh có quy định cụ thể phân cấp trách nhiệm và quyền hạn quản lý nhà nước cho thị xã, trên cơ sở đó thị xã có chủ trương và biện pháp cụ thể để phát triển mạnh các ngành hàng này. (6) Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp có đủ năng lực làm ăn có hiệu quả tiến dần lên thành những đơn vị nòng cốt của kinh tế thị xã thuộc các ngành nghề như: mua bán vật tư hàng hóa, kinh doanh du lịch, cung cấp các dịch vụ kỹ thuật và cây - con giống cho sản xuất nông nghiệp, tham gia đầu tư vốn và nhận thi công các công trình, quản lý và khai thác các công trình sau đầu tư, thực hiện xây dựng các công trình theo phương thức mới.
Trong 5 năm 2001-2005, giá trị thương mại - dịch vụ, tốc độ tăng vốn đầu tư, số doanh nghiệp và hộ kinh doanh tăng nhanh. Năm 2005, tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ thực hiện là 3.498 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2004. Thị xã cũng đã tổ chức cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 423 hộ với tổng số vấn đăng ký là 24,456 tỷ đồng, phát triển mới 35 doanh nghiệp với mức vốn đầu tư là 40,357 tỷ đồng, như vậy, toàn thị xã có 4.610 hộ cá thể và 127 doanh nghiệp (so với năm 2004 tăng 228 hộ và 35 doanh nghiệp), trong đó có 19 công ty trách nhiệm hữu hạn và 2 công ty cổ phần.
Ngành dịch vụ tiếp tục phát triển. Hạ tầng dịch vụ được quan tâm xây dựng và chuẩn bị đưa vào khai thác, một số chợ và khu du lịch tiếp tục hoàn thành các thủ tục để đầu tư. Kết cấu hạ tầng du lịch từng bước được triển khai thực hiện: khu văn hóa du lịch ao Bà Om, mở rộng khu di tích Đền thờ Bác Hồ, xây dựng mới các cơ sở lưu trú phục vụ du lịch..., tổng doanh thu dịch vụ bình quân tăng 15,4%/năm. Một số loại hình dịch vụ của thị xã Trà Vinh được phát triển mạnh trong thời gian này như: thông tin liên lạc, vận tải, điện tử, tin học, bán vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, nhà trọ...
Tuy nhiên, ở thị xã Trà Vinh, các hoạt động kinh doanh, dịch vụ vẫn còn mang tính tự phát. Một số doanh nghiệp có vốn lớn nhưng chưa mạnh dạn đầu tư vào các ngành sản xuất và dịch vụ.
Đảng bộ thị xã đã tích cực chỉ đạo thực hiện một số giải pháp quan trọng cho phát triển nông nghiệp, thủy sản. Đảng bộ chỉ đạo tiếp tục chuyển phần lớn khu vực nông nghiệp của xã Long Đức và vùng ven thị xã phát triển thành các cụm đô thị vườn, du lịch sinh thái, các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ. Đồng thời, chuyển diện tích canh tác lúa kém hiệu quả sang sản xuất vườn cây ăn trái kết hợp với nuôi thủy sản, chuyển bớt diện tích gieo trồng lúa vụ 2 và vụ 3 sang sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày và cây thực phẩm, tăng năng suất và chất lượng lúa, bảo đảm sản lượng lúa không giảm so với năm 2000, hình thành các tiểu vùng chuyên canh sản xuất hoa kiểng và rau xanh, cải tạo thâm canh vườn cây ăn trái. Nhờ các biện pháp chỉ đạo tích cực của Thị ủy, cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở thị xã Trà Vinh đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, diện tích sản xuất lúa giảm và diện tích trồng màu tăng. Hàng nghìn lao động nông nghiệp được chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Từ năm 2001 đến năm 2005, thị xã Trà Vinh đã chuyển gần 800ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang mục đích khác (trong đó, cây màu 383ha, cây ăn trái 165,29ha, nuôi thủy sản 32,5ha, mặt bằng sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 170ha...). Chăn nuôi phát triển khá theo hình thức công nghiệp và quy mô trang trại, đàn heo tăng bình quân 8,5%/năm, đàn bò tăng 10,8%/năm.
Thị ủy đã tạo điều kiện để gắn phát triển sản xuất nguyên liệu với đầu tư tín dụng trung hạn để chế biến nông sản. Thị ủy tạo cơ chế để phát triển cơ sở tạo cây giống và con giống có năng suất, chất lượng cao; phát triển mạnh chăn nuôi gia súc - gia cầm theo hình thức công nghiệp và sử dụng phổ biến giống chất lượng cao. Thị ủy đề ra yêu cầu xây dựng phương án tổng thể về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm và hằng năm có kế hoạch cụ thể, triển khai xây dựng đồng bộ và khép kín theo từng khu vực. Thị ủy yêu cầu toàn bộ đất nông nghiệp của thị xã được xây dựng khép kín về thủy lợi - giao thông, chủ động tưới tiêu theo yêu cầu sản xuất, 90% số hộ có điện và nước sạch cho sinh hoạt. Để phát triển nông nghiệp, thị xã yêu cầu mỗi khóm, ấp có sản xuất nông nghiệp chọn ít nhất 1 hộ có điều kiện và khả năng tập trung đầu tư chiều sâu để tạo mô hình trình diễn, nội dung mô hình hướng vào: cây, con đặc sản có giá trị kinh tế cao, khu du lịch sinh thái, chăn nuôi công nghiệp, đưa cây màu xuống chân ruộng và kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh đó, chú ý chuyển giao vốn gắn với chuyển giao quy trình sản xuất mới cho kinh tế hộ nông nghiệp; chủ động quan hệ chặt chẽ với các viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật của Bộ, Trường Đại học cần Thơ, Trung tâm khuyến nông và Trung tâm khuyến ngư của tỉnh, nhằm chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ về các loại giống mới, cải tiến công nghệ sản xuất, kết hợp với các ngành chức năng của tỉnh triển khai một số đề án cụ thể về đào tạo nghề cho cán bộ nông nghiệp và tập huấn kỹ thuật cho chủ hộ để nâng cao trình độ cho cán bộ kỹ thuật và chủ doanh nghiệp.
Thị ủy quan tâm tập trung hỗ trợ vốn tín dụng để phát huy hiệu quả sử dụng và đóng mới các tàu khai thác hải sản xa bờ; đồng thời phát triển mạnh nuôi các loại thủy sản có giá trị cao và có thị trường tiêu thụ ổn định như: tôm càng xanh, cá sặc rằn, cá rô đồng, cá tra... Nhờ đó, tốc độ tăng sản lượng thủy sản khai thác bình quân tăng 5,3%/năm, nuôi trồng tăng 8,8%/năm. Riêng trong 3 năm 2001-2003, trên địa bàn thị xã đã có 117 phương tiện đánh bắt, có 85 tàu công suất 30-90 CV, góp phần tăng sản lượng khai thác hằng năm.
Nhìn chung, ngành nông nghiệp, thủy sản thị xã có sự phát triển khá đều qua các năm. Trong 5 năm 2001- 2005, giá trị sản xuất nông nghiệp - thủy sản ở thị xã tăng bình quân 7,26%/năm. Năm 2005, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 69 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch đề ra, tăng 1,47% so với năm 2004; giá trị sản xuất thủy - hải sản đạt được 58 tỷ đồng, bằng 95,08% kế hoạch đề ra, giảm 1,7% so với năm 2004; sản lượng khai thác tôm cá đạt 4.539 tấn, bằng 83,44% kế hoạch đề ra; thu hoạch được 3.733ha diện tích lúa.
Nhờ các chính sách khuyến khích, củng cố và phát triển kinh tế, đến năm 2005, thị xã có 19 đơn vị kinh tế hợp tác, trong đó 15 hợp tác xã, 4 quỹ tín dụng nhân dân hoạt động tương đối ổn định. Thực hiện Quyết định số 57 của Ủy ban nhân dân tỉnh về chính sách ưu đãi phát triển kinh tế trang trại, các phường, xã đã đẩy mạnh xây dựng trang trại. Đến năm 2005, trên địa bàn thị xã có 44 trang trại được công nhận, thu nhập bình quân đạt 50 triệu đồng/năm/trang trại. Tuy nhiên, thị xã cũng còn nhiều lúng túng trong chỉ đạo phát triển các mô hình kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại, chưa tổ chức sơ kết để tìm ra biện pháp tháo những vướng mắc phát sinh; chưa thực hiện được mô hình liên kết giữa kinh tế hộ, doanh nghiệp và trang trại.
Cũng trong năm 2005, thị xã tập trung chỉ đạo công tác phòng chống dịch cúm gia cầm H5N1, đã tổ chức tiêm phòng 2 đợt đạt tỷ lệ 81,1%, thực hiện tiêu độc sát trùng cho những hộ chăn nuôi và các chợ.
Công tác quản lý tài chính - ngân sách luôn được quan tâm chỉ đạo sát sao. Ngay từ đầu, Thị ủy đã chỉ đạo phát triển theo hướng: (1) Ngân sách thị xã - phường, xã bảo đảm cân đối thu chi, có tích lũy và dành ưu tiên cho đầu tư phát triển để tạo nguồn thu mới. (2) Thực hiện công khai-dân chủ trong công tác quản lý tài chính - ngân sách. (3) Phối hợp với các ngành chức năng chủ động cân đối theo kế hoạch hằng năm các nguồn đầu tư của Nhà nước và cho vay tín dụng trên địa bàn, dự kiến các nguồn huy động trong nhân dân, có kế hoạch cân đối chung hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế và các công trình trọng điểm, xây dựng, nâng cấp và mở rộng nhiều công trình công cộng.
Trong 5 năm 2001-2005, thị xã hoàn thành vượt mức kế hoạch hằng năm, tổng thu ngân sách tăng nhanh, đạt 246,4 tỷ đồng, bình quân tăng 23,7%/năm, tăng 2,27 lần so với giai đoạn 1996-2000; riêng năm 2004 nguồn thu từ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 1.483% và 5 tháng đầu năm 2005 đạt trên 200%.
Chi ngân sách bảo đảm theo kế hoạch, thực hiện đúng luật và ưu tiên cho đầu tư phát triển, bình quân hằng năm đạt 29,7% tổng chi ngân sách. Hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có nhiều tiến bộ, huy động tiền gửi năm 2005 tăng 2,7 lần so với năm 2000, tăng bình quân 23,3%/năm; tổng dư nợ cho vay đạt 767 tỷ đồng, tăng bình quân 21,8%/năm. Phần lớn các dự án đều phát huy được hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Vốn đầu tư xây dựng và phát triển xã hội luôn được chú ý. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách tập trung, vốn sự nghiệp có tính chất xây dựng cơ bản mà tỉnh giao thị xã làm chủ đầu tư tập trung vào các công trình đường giao thông nội thị, hạ thế điện, hệ thống thoát nước, vỉa hè, cây xanh, nâng cấp bờ bao, giao thông nông thôn,... Thị xã đã huy động được vốn đối ứng từ nhân dân. Trong 5 năm 2001-2005, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 1.512 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so giai đoạn 1996-2000. Đặc biệt, các cấp ủy phường, xã đã thực hiện chủ trương bằng cách vận dụng nhiều biện pháp tích cực nên đã huy động tổng hợp từ nhiều nguồn đóng góp của nhân dân, nhất là quỹ đất quy đổi ra giá trị đạt trên 100 tỷ đồng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Nhìn chung, tốc độ tăng chi đầu tư cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, các công trình đầu tư đã phát huy tác dụng tốt.
Công tác quản lý đô thị được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, do đó Thị ủy đã chỉ đạo tranh thủ các nguồn vốn đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, chỉnh trang đô thị theo hệ thống các tiêu chí của đô thị loại III. Nhờ tích cực, chủ động trong chỉ đạo thực hiện, nên trong 5 năm 2001-2005, công tác quản lý đô thị ở thị xã Trà Vinh có nhiều chuyển biến và đạt được nhiều thành tích quan trọng.
Thành công bước đầu và quan trọng của thị xã là đã góp phần tích cực tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết 08 “về phát triển thị xã Trà Vinh đến năm 2010” và ngày 10-9-2004 Thị ủy đã triển khai thực hiện Nghị quyết 08 bằng Chương trình hành động số 21-CTr/TXU; liên tiếp trong ba năm (2003-2005), Thị ủy đều nêu chủ đề “năm quản lý đất và chỉnh trang đô thị” bằng văn bản để tập trung chỉ đạo và Ban Thường vụ Thị ủy đã ban hành Chỉ thị số 03 và được ủy ban nhân dân thị xã cụ thể hóa bằng Kế hoạch số 15 theo tinh thần Chỉ thị số 04 và 07 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh về chấn chỉnh quản lý sử dụng đất đai. Ngày 28-11-2003, Thị ủy cũng ban hành Chương trình hành động số 16-CTr/TXU thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (phần 2) khóa IX về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nhìn chung, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08 của Tỉnh ủy, các chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, các chỉ thị, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của Thị ủy và ủy ban nhân dân thị xã đã nâng dần nhận thức trong nội bộ và nhân dân về quản lý đất đai và xây dựng, hạn chế được tình trạng sốt giá đất, từng bước lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý sử dụng đất đai và xây dựng trên địa bàn. Sự trông chờ ỷ lại từ đầu tư bao cấp của nhà nước từng bước được thay thế bằng cách nghĩ và cách làm mới: cùng tham gia đầu tư và cùng hưởng lợi. Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị được thử nghiệm và thu được kết quả bước đầu. Mô hình kết hợp giữa quy hoạch với đầu tư và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm đáp ứng nhu cầu và định hướng phát triển theo tiêu chí đô thị loại III được quan tâm thực hiện, về xây dựng đô thị loại III, đến năm 2005 vẫn còn 8 tiêu chí chưa đạt; mỹ quan đô thị và 5 nội dung về trật tự vỉa hè đã có sự nhận thức mới.
Công tác kiểm tra về trật tự mỹ quan đô thị được chỉ đạo thường xuyên liên tục. Đoàn kiểm tra đầu tư xây dựng và quản lý sử dụng đất trên địa bàn từng phường, xã đã được thành lập, đã lập biên bản và xử phạt hàng trăm trường hợp vi phạm. Thị xã cũng thành lập Đội kiểm tra trật tự đô thị, đã phát hiện và lập biên bản giáo dục 25.995 trường hợp vi phạm, trong đó có 747 trường hợp xây dựng nhà và chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, xử phạt 395 trường hợp. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai, trật tự đô thị có sự chuyển biến rõ nét. Công tác chỉnh trang đô thị được đẩy mạnh. Nhiều dự án như: hệ thống thoát nước nội ô, nâng cấp đường Bạch Đằng nối dài và đường xí nghiệp gỗ, thoát nước phường 9, nâng cấp đường Lý Thường Kiệt,… đã được thực hiện; các công trình như giao thông liên khóm, phường 8, 9, đường giao thông nông thôn ấp Phú Hòa - Huệ Sanh xã Long Đức, xây dựng chợ phường 9, láng nhựa đường khóm 1 phường 8 được thực hiện bằng vốn tài trợ nước ngoài. Thị xã đã chú ý thực hiện các công trình trọng điểm, các kế hoạch, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội theo Quyết định số 239 của ủy ban nhân dân thị xã.
Vai trò của Công ty công trình công cộng đảm trách các dịch vụ công ích được khẳng định. Trật tự đô thị được quan tâm, các phương án mang tính dài hạn, căn bản và đồng bộ hơn đang được chuẩn bị. Đến cuối năm 2005, thị xã có 100% khóm, ấp có điện lưới quốc gia, trong đó có 96% số hộ sử dụng điện, tăng 3% so cùng kỳ năm 2004; có 97% số hộ được sử dụng nước sạch, có 74% số hộ sử dụng điện thoại cố định. Nhiều hộ gia đình đầu tư, sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới nhà ở kiên cố theo quy hoạch đã góp phần cải thiện cảnh quan môi trường thị xã. Những kết quả trên đã làm cho bộ mặt và chất lượng của môi trường đô thị “xanh - sạch - sáng - đẹp” được nâng lên.
Tuy nhiên, ở thị xã Trà Vinh, các phương án tổng thể về phát triển đô thị và từng chuyên ngành, trình tự thủ tục trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý theo quy hoạch vẫn còn nhiều vướng mắc chậm được tháo gỡ. Thị xã vẫn thiếu quan tâm đầu tư xây dựng, giao thông, thoát nước... ở các cụm dân cư phía sau tuyến phố giao thông chính (tình trạng ngập úng, ô nhiễm môi trường còn khá phổ biến). Quản lý đô thị, nhất là quản lý đất đai và trật tự đô thị, còn nhiều yếu kém. Sự phân công và phối hợp giữa các đơn vị còn nhiều hạn chế, vướng mắc.
Công tác giáo dục - đào tạo luôn được đề cao và không chỉ được sự quan tâm của các cấp bộ đảng, chính quyền mà cả của người dân.
Trong 5 năm 2001-2005, sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở thị xã Trà Vinh tiếp tục phát triển, chất lượng dạy và học các cấp được nâng lên, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học hằng năm đạt 95% trở lên. Tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng ở bậc tiểu học từ 2,4% giảm xuống còn 0,7%, trung học cơ sở giảm từ 5% xuống còn 1,7%. Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 năm học 2002-2003 đạt 99,4%, năm học 2004 - 2005 đạt 99,5%. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở có 10/10 phường, xã và thị xã được tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia năm 2005. 90% số giáo viên được chuẩn hóa theo quy định. Thực hiện Đề án quy hoạch mạng lưới trường lớp, thị xã đã đầu tư xây dựng nâng cấp 143 phòng học với tổng số tiền trên 14 tỷ đồng ở Trường Lý Tự Trọng và Trường tiểu học Long Đức B, Trường tiểu học Minh Trí, đang xây dựng Trường tiểu học phường 6 và Trường tiểu học phường 8C theo hướng đạt chuẩn quốc gia... Phong trào học ngoại ngữ và tin học ứng dụng phát triển mạnh.
Thị xã còn kết hợp với Trường dạy nghề cần Thơ đào tạo nghề cho 120 học viên. Công tác xã hội hóa giáo dục được quan tâm chỉ đạo, từng bước chuyển phương thức và hoạt động của Hội đồng giáo dục, Hội Khuyến học trên địa bàn từng phường, xã. Hướng dẫn và giúp đỡ thanh niên đi học nghề tại Trung tâm Hướng nghiệp và Dạy nghề của tỉnh đóng trên địa bàn thị xã. Tạo điều kiện cho lao động đi làm công hoặc học nghề ở các doanh nghiệp ngoài tỉnh trở về thị xã mở cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên công tác giáo dục - đào tạo vẫn còn các nhược điểm cần khắc phục như: cơ sở trường, lớp trong nội ô của thị xã phần lớn thiếu diện tích theo tiêu chuẩn để đạt chuẩn quốc gia, mô hình xã hội hóa giáo dục chậm được nhân rộng. Tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng còn không ít.
Công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao trong 5 năm 2001-2005 được đẩy mạnh và có những thành tích quan trọng. Thị xã đã chỉ đạo xây dựng và ban hành chương trình phát triển văn hóa - thông tin - thể dục, thể thao và đề án quy hoạch thiết chế văn hóa - thể dục thể thao trên địa bàn trong 5 năm 2001-2005. Phong trào thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, và công tác xây dựng gia đình văn hóa, phường văn hóa, đơn vị văn hóa phát triển sâu rộng, mang lại kết quả tích cực: có 49/72 khóm, ấp văn hóa (có 4 khóm được công nhận khu dân cư tiên tiến); 188/238 cơ quan, trường học, chợ, cơ sở tôn giáo tín ngưỡng văn minh; phường 2 tiếp tục đạt tiêu chuẩn phường văn hóa, và đề nghị công nhận phường 3 đạt chuẩn văn hóa. Ngày 19-01-2005, Thị ủy tiếp tục đề ra Chương trình hành động số 23-CTr/TXU thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX và Chương trình hành động (bổ sung) của Tỉnh ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều tiến bộ. Đài Truyền thanh thị xã, Trạm truyền thanh các phường, xã có nhiều cải tiến kịp thời đưa tin phản ánh các hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; xây dựng đài phát thanh sóng FM; thường xuyên cộng tác với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, kịp thời tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 2004-2009, các chương trình hành động của Tỉnh ủy, Thị ủy, kỷ niệm các ngày lễ lớn...
Việc tỉnh đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa tỉnh, xây dựng mới sân vận động, nhà thi đấu đa dụng, trường năng khiếu... đã góp phần thúc đẩy phong trào thể dục - thể thao trên địa bàn thị xã. Thị xã đã triển khai xây dựng 42 tụ điểm văn hóa - thể dục - thể thao trên địa bàn các phường, xã. Thị xã đã tổ chức thực hiện tốt các cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, tổ chức Đại hội thể dục - thể thao truyền thống thị xã lần thứ IV, năm 2002 tham gia Đại hội thể dục - thể thao tỉnh Trà Vinh đạt giải nhất toàn đoàn. Thị xã tổ chức và tham gia các giải thể thao phong trào và văn nghệ quần chúng, đạt 186 huy chương các loại (trong đó có 160 huy chương vàng). Chủ trương xã hội hóa hoạt động thể dục - thể thao được đẩy mạnh và có kết quả khả quan. Ngày 20-10-2004, Thị ủy Trà Vinh có Báo cáo số 330-BC/TXU sơ kết việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí thư khóa IX về phát triển thể dục - thể thao năm 2010.
Tuy có những thành tích đáng ghi nhận, song lĩnh vực văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao của thị xã Trà Vinh cũng còn một sốyếu kém: chất lượng hoạt động khóm, ấp văn hóa, phường văn hóa chậm được nâng lên; lực lượng làm công tác văn hóa - thể dục - thể thao vẫn thiếu và yếu; các cơ sở luyện tập, vui chơi, giải trí cho thanh thiếu niên còn rất thiếu...
Công tác y tế ở thị xã được thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Chất lượng hoạt động các trạm y tế ở các phường, xã ngày được nâng cao. Tổ chức phi Chính phủ của Thụy Sĩ đã đầu tư xây dựng Phòng khám đa khoa khu vực xã Long Đức. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và hoàn thiện, Phòng khám đa khoa trung tâm thị xã được đưa vào hoạt động, 10 trạm y tế phường, xã đều có bác sĩ phục vụ; 100% khóm, ấp có nhân viên sức khỏe cộng đồng, trạm y tế phường 3 và phường 6 được công nhận đạt chuẩn y tế quốc gia.
Chương trình y tế quốc gia được thực hiện tốt. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện đều đặn, đã tổ chức tiêm chủng mở rộng đủ 6 loại vắcxin phòng bệnh cho trẻ dưới 1 tuổi đạt tỷ lệ 99,8%; tỷ lệ trẻ em uống vitamin A hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 18,88%. Thị xã còn tổ chức khám và phát động mua bảo hiểm y tế trong học sinh. Công tác truyền thông về dân số - kế hoạch hóa gia đình được chú trọng, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,05% xuống còn 1,02% năm 2005.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực y tế, công tác đào tạo cán bộ y tế tuyến cơ sở và việc đưa bác sĩ về phục vụ tại các trạm y tế phường, xã thực hiện chậm so với yêu cầu. Việc quản lý hành nghề y, dược tư nhân, vệ sinh môi trường và thực phẩm còn buông lơi, thiếu chặt chẽ.
Công tác an sinh xã hội được Đảng bộ và người dân thị xã Trà Vinh hết sức quan tâm và thực hiện tốt. Thị xã đã thực hiện tốt chính sách đối với người có công, các chế độ trợ cấp thường xuyên và đột xuất cho gia đình chính sách được giải quyết kịp thời; xây dựng và bàn giao 141 căn nhà tình nghĩa; tiếp tục phụng dưỡng 8 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và 41 bà mẹ có 2 con là liệt sĩ; có 100% phường, xã được công nhận làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và nâng cao mức sống cho gia đình chính sách. Hằng năm, thị xã và các phường, xã thường xuyên tổ chức thăm viếng các gia đình chính sách nhân các ngày lễ, Tết. Thị xã thực hiện tốt công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chế độ chính sách khác có liên quan đến quyền lợi của các đối tượng chính sách và của cán bộ công chức, chẳng hạn như: năm 2003, thị xã đã đề nghị cấp trên giải quyết 19 trường hợp hưởng chính sách BCK; họp mặt và trao kỷ niệm chương cho 190 người tham gia hoạt động cách mạng bị địch bắt tù đày... Thị xã triển khai thực hiện Đề án 01 của Ủy ban nhân dân tỉnh về hỗ trợ nhà ở cho hộ Khmer nghèo.
Công tác xóa đói giảm nghèo được quan tâm, từ nguồn vốn 120, Ngân hàng Chính sách xã hội và Quỹ xóa đói giảm nghèo đã giải ngân 6,4 tỷ đồng cho 1.162 hộ vay vốn, tạo việc làm cho hơn 5.000 lao động. Số hộ nghèo từ 1.855 hộ giảm xuống còn 1.325 hộ, chiếm tỷ lệ 6,9%; thu nhập bình quân đầu người đạt 624 USD, tăng 1,57 lần so với năm 2000. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên, bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới. Đề án xóa nhà tre lá và Đề án hỗ trợ nhà ở, đất ở cho cán bộ, công chức có thu nhập thấp được triển khai. Thực hiện kế hoạch xuất khẩu lao động và giới thiệu lao động làm việc ngoài tỉnh; tiếp tục phối hợp với Trường dạy nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đào tạo nghề công nhân kỹ thuật. Tuy nhiên, các dự án đầu tư giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo chưa được sơ kết, tổng kết kịp thời; các biện pháp giải quyết việc làm chưa đồng bộ.
Đảng bộ thị xã rất quan tâm đến vấn đề tăng cường an ninh và quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị. Thị ủy đã quán triệt, chỉ đạo xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 16-4-2002 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo đảm an ninh quốc phòng vùng Tây Nam Bộ”. Đặc biệt, Thị ủy đã quán triệt và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh quốc gia và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đảng bộ cũng đã tiến hành học tập và tích cực triển khai thực hiện Quyết định số 150/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai Chương trình hành động phòng chống ma túy giai đoạn 2001-2005, sơ kết 02 năm thực hiện Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong tình hình mới.
Nhìn chung, trong cả giai đoạn 2001-2005, trên địa bàn thị xã Trà Vinh, tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định, tội phạm, tệ nạn xã hội đã giảm xuống. Thị ủy đã chỉ đạo triển khai thực hiện tốt kế hoạch bảo vệ an ninh tuyệt đối các ngày lễ, Tết, các đoàn của Trung ương đến thăm và làm việc tại thị xã, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX (năm 2002). Thị ủy đã kịp thời chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn các hoạt động tán phát tài liệu có nội dung phản động, kích động hận thù, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo làm trái pháp luật, xây sửa các cơ sở thờ tự không xin phép...
Các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân thực hiện có hiệu quả chương trình phòng chống tội phạm và phòng chống ma túy trên địa bàn. Phạm pháp hình sự, tệ nạn xã hội giảm, trong 5 năm 2001-2005 xảy ra 1.415 vụ (giảm 673 vụ); làm chết 104 người (tăng 22 người), bị thương 165 người (giảm 669 người). Trong đó: phạm pháp hình sự 337 vụ (giảm 148 vụ); tai nạn giao thông 104 vụ (giảm 599 vụ)... Trong đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, nhân dân tích cực đóng góp cùng lực lượng công an phá án đạt 80% đối với các loại thường án và 100% đối với các loại trọng án.
Hằng năm, thị xã đều hoàn thành chỉ tiêu đưa quân đúng tiêu chuẩn, đảm bảo thời gian quy định và đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Công tác huấn luyện dân quân tự vệ được đẩy mạnh. Thị ủy đã lãnh đạo các chi bộ, đảng bộ ngành và các phường, xã tiếp tục tổ chức triển khai quán triệt Công văn số 398-CV/TU ngày 26-2-2003, của Tỉnh ủy Trà Vinh về thực hiện Chỉ thị số 16-CT/TW nhằm tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị đối với lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị động viên, bảo đảm là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huông. Hằng năm, thị xã tiến hành tổ chức huấn luyện cho khoảng 1.300 đến hơn 1.800 dân quân tự vệ, duy trì số dân quân tự vệ trong thị xã khoảng 2.100 đến 2.200 người, chiếm khoảng 2,4-2,5% dân số. Công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu được duy trì thường xuyên. Thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân ở các khu vực và địa bàn được quan tâm xây dựng. Công tác diễn tập vận hành cơ chế cấp thị xã và phường, xã hằng năm đạt yêu cầu chỉ đạo, qua diễn tập tiếp tục bổ sung phương án phòng chống biểu tình gây rối, bạo loạn, khủng bố trên địa bàn. Thị xã thực hiện mô hình khóm, ấp đội trưởng kiêm Bí thư Đoàn thanh niên ở 43/72 ấp, khóm. Năm 2004, thị xã Trà Vinh đã thực hiện diễn tập vận hành cơ chế theo kế hoạch chiến đấu trị an phường 8, phường 9 theo chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh; tổ chức diễn tập vận hành cơ chế cấp thị xã theo chỉ thị của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh; Thị ủy Trà Vinh cũng đã có Chỉ thị số 06-CT/TXU ngày 09- 3-2004, “Về việc tiếp tục lãnh đạo, nâng cao chất lượng công tác quốc phòng - quân sự địa phương”.
Thực hiện Nghị quyết 08 về cải cách tư pháp, các cơ quan tư pháp đã củng cố tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tương đối kịp thời, công tác hòa giải ở cơ sở có tiến bộ và đạt kết quả tốt. Chất lượng thi hành án dân sự được nâng lên, bình quân mỗi năm đạt 90,15% án có điều kiện. Tòa án thị xã đưa ra xét xử kịp thời các vụ án bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, ở thị xã Trà Vinh, công tác an ninh, trật tự an toàn xã hội vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục như: các loại tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội vẫn còn xảy ra nhiều; công tác tuyên truyền phát động phong trào quần chúng tham gia phòng chống tội phạm chưa sâu rộng; sự phối kết hợp để tấn công các loại tội phạm, tệ nạn xã hội giữa các lực lượng chưa thật đồng bộ; tình hình hoạt động tôn giáo trái phép từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn yếu về năng lực, hầu hết chưa qua đào tạo; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và sự kết hợp để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện chưa đồng bộ.
Tin khác
1 2 3 
TUYÊN TRUYỀN
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 4
  • Hôm nay: 16
  • Trong tuần: 3 788
  • Tất cả: 8757223

WEBSITE BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY TRÀ VINH

Trưởng Ban biên tập: Trần Quốc Tuấn

Chức vụ: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.  

Ghi rõ nguồn "Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TRÀ VINH

Địa chỉ: số 4, Nguyễn Thái Học, Khóm 4, Phường 1, Thành phố Trà Vinh

Điện thoại: 02943.853574 

Email: btgtutravinh@travinh.gov.vn

Website: tuyengiao.travinh.gov.vn