CỦNG CỐ TỔ CHỨC, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, TỪNG BƯỚC ỔN ĐỊNH VÀ NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1991-1995) (tt)
2. Cơ cấu lại ngành, nghề, phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển
Sau 5 năm bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ VI, Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh đã đạt được nhiều thắng lợi trên nhiều lĩnh vực.
Thời kỳ 1991-1995, kinh tế thị xã tăng trưởng bình quân 12,8%/năm. Đến năm 1995, thu nhập bình quân đầu người đạt 239 USD. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng: tăng dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp. Trong cơ cấu kinh tế ngành của thị xã, năm 1991, tỷ trọng của các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, một số ngành khác tương ứng là: 39% - 38% - 19% - 4%, thì đến năm 1995, tỷ trọng của các ngành này lần lượt là: 42% - 38% - 14% - 6%. Đạt được các thành tích nêu trên này là nhờ trong suốt 5 năm 1991-1995 Đảng bộ đã chỉ đạo tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh của thị xã theo hướng phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp gắn với phát triển nông nghiệp toàn diện và các loại hình kinh tế dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm phát triển kinh tế đô thị, tăng thêm thu nhập, có tích lũy và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Về sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ VI đã xác định phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là mục tiêu hàng đầu trong kế hoạch phát triển 5 năm 1991-1995 của thị xã. Do đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ đã có sự chỉ đạo tập trung, thường xuyên, nhằm ổn định và phát triển sản xuất, tạo ra sản phẩm tiêu dùng, giải quyết việc làm cho người lao động. Thời gian đầu nhiệm kỳ khi chưa tách tỉnh (năm 1991), Thị ủy đã tập trung chỉ đạo các xí nghiệp quốc doanh cố gắng khắc phục khó khăn, duy trì được tiến độ sản xuất và ổn định việc làm cho công nhân. Xí nghiệp cơ khí nghiên cứu được sản phẩm mới như máy ép - dập tơ xơ dừa. Xí nghiệp Sản xuất hàng may mặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khăn tắm, sản phẩm được tiêu thụ tương đối tốt. Xí nghiệp gạch ký được nhiều hợp đồng xây dựng. Xí nghiệp chế biến hàng nông sản thực phẩm được thành lập tháng 11-1991. Thị ủy đã tiến hành củng cố sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh đang sản xuất cầm chừng do kém hiệu quả hoặc thua lỗ như: xí nghiệp gỗ, xí nghiệp nước đá, xí nghiệp sản xuất bao bì PP, xí nghiệp sản xuất đường và xí nghiệp sản xuất xà bông. Thị ủy đã tập trung nguồn lực và chỉ đạo ba xí nghiệp: cơ khí, chế biến nông sản thực phẩm và xây dựng, phân công, bố trí cán bộ kỹ thuật ở từng đơn vị cho hợp lý. Thị ủy cũng đã tổ chức thực hiện tốt Quyết định số 88/HĐBT và Đề án 28 của Tỉnh ủy về công tác thanh lý nợ.
Thị ủy đã cố chủ trương liên kết với tỉnh để mở rộng và phát triển sửa chữa cơ khí, tập trung đại tu ôtô phục vụ nông nghiệp và giao thông trong khu vực. Để tạo điều kiện tốt nhất cho các xí nghiệp, Thị ủy cũng đã đề nghị tỉnh và Trung ương có chính sách miễn giảm thuế đối với đơn vị sản xuất có chu kỳ kinh doanh dài. Thị ủy cũng đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thị xã nghiên cứu vận dụng thí điểm hình thức xí nghiệp cổ phần góp vốn đầu tư vào sản xuất, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài tỉnh nhận gia công hoặc tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế thị xã. Tuy nhiên, đầu năm 1993, do thị xã chuyển sang cấp dự toán ngân sách, đồng thời thực hiện Chỉ thị 08/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nên thị xã đã tiến hành giải thể Công ty thương nghiệp, Công ty du lịch, Công ty xây dựng - giao thông và phát triển nhà ở thị xã. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng và dịch vụ tại địa phương, thị xã thành lập 2 công ty trách nhiệm hữu hạn do Ban quản trị Tài chính Tỉnh ủy quản lý. Do đó, từ tháng 2-1993 thị xã không còn đơn vị kinh tế quốc doanh.
Đồng thời với việc chỉ đạo phát triển công nghiệp, Thị ủy cũng chỉ đạo, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp của thị xã không ngừng phát triển, phân bố hợp lý trên địa bàn phường, xã, theo hướng đa dạng, tập trung được nhiều nguồn vốn đầu tư, giải quyết được việc làm cho nhiều lao động. Một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đã thể hiện tính năng động trong sản xuất, thích nghi với cơ chế thị trường, phát huy được những ngành nghề có tính chất truyền thống của địa phương như chế biến thực phẩm, gỗ dân dụng, sửa chữa cơ khí... Năm 1991, thị xã đã có 512 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp với 1.721 lao động. Năm 1991, giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 12,105 tỷ đồng (giá cố định năm 1989). Đến năm 1995, thị xã có 604 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp với 3.378 lao động, mức tăng bình quân hằng năm đạt 13,05%. Năm 1995, giá trị tổng sản lượng toàn ngành đạt 21,441 tỷ đồng (giá cố định năm 1989).
Về thương mại - dịch vụ: Là vị trí trung tâm giao lưu hàng hóa của tỉnh và điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, Thị ủy đã tập trung phát triển thế mạnh của thị xã trong kinh tế dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, tiêu dùng và sinh hoạt đời sống của nhân dân thị xã nói riêng, của tỉnh nói chung.
Ngành dịch vụ phát triển rõ rệt, nhất là sau khi tách tỉnh. Cùng với việc quy hoạch các khu vực kinh tế đã hình thành nhiều ngành dịch vụ mới, trong đó tập trung các ngành chủ yếu như: sửa chữa máy móc, thiết bị nông ngư cơ, sửa chữa điện tử, may mặc, vận tải... Năm 1995, thị xã có 413 cơ sở dịch vụ với 738 lao động, mức tăng trưởng bình quân hằng năm là 17,90%. Giá trị tổng sản lượng ngành dịch vụ năm 1995 là 16,750 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 9,773 tỷ đồng năm 1991.
Sau khi tách tỉnh, thị xã mở rộng hơn việc giao lưu thương mại trong và ngoài tỉnh, hình thành nhiều khu vực thương mại mới và phát triển các chợ vệ tinh ở các phường, xã, góp phần phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Trong 5 năm 1991-1995, Thị ủy đã chỉ đạo trước mắt chuyển phương thức hoạt động của thương nghiệp quốc doanh bảo đảm có hiệu quả. Mở rộng liên doanh liên kết khâu bán buôn các mặt hàng chủ yếu, đồng thời tổ chức tốt mạng lưới các cửa hàng, đại lý bán lẻ, tăng nhanh vòng quay của vốn, từng bước có dự trữ một số mặt hàng chiến lược để tham gia điều tiết giá cả thị trường. Đối với các phường, xã, Thị ủy đã chỉ đạo tìm ra nhiều biện pháp huy động nguồn vốn cho kinh doanh, mở các cửa hàng phục vụ đến tận tay người tiêu dùng.
Từ năm 1993 chuyển sang cấp dự toán ngân sách, thị xã đã xét cấp 2.300 hồ sơ xin đăng ký kinh doanh; ngoài ra trên địa bàn thị xã có 40 hộ đăng ký doanh nghiệp tư nhân đã được tỉnh cấp phép hoạt động, thị xã thường xuyên kết hợp với Đội quản lý thị trường tỉnh tiến hành kiểm tra công tác đăng ký kinh doanh.
Nhờ có chính sách khuyến khích phát triển thương mại - dịch vụ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế nên đến năm 1995, thị xã có 2.276 hộ kinh doanh với doanh thu đạt 250 tỷ đồng (theo giá năm 1995) tạo nguồn thu lớn cho ngân sách; riêng nguồn thuế ngoài quốc doanh năm 1995 đạt 12,8 tỷ đồng, chiếm 87,7% tổng thu ngân sách của thị xã.
Về xuất khẩu: Thị ủy đã chỉ đạo tập trung vốn đầu tư, thu mua hàng nông sản thực phẩm như: gạo, tôm, cơm dừa, hạt đào... liên kết với các huyện và ngành trong tỉnh để có điều kiện xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu theo chính sách của Nhà nước ban hành, bảo đảm hiệu quả kinh tế và thúc đẩy sản xuất trong tỉnh, thị xã phát triển.
Đối với chợ trung tâm, thị xã thực hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài tiến hành dự án cải tạo, nâng cấp, xây dựng chợ Trà Vinh với tổng vốn đầu tư trên 7 tỷ đồng (huy động vốn của các hộ kinh doanh), sau đó chợ đã được đi vào hoạt động cuối năm 1996. Ngoài ra, Đảng bộ còn quan tâm chỉ đạo xây dựng các chợ vệ tinh ở một số phường và xã Long Đức. Công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, làm và mua bán hàng giả, lập lại kỷ cương pháp luật trong kinh doanh... có sự chuyển biến tích cực, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm chặt chẽ hơn, nhất là khâu kiểm tra sản xuất, kinh doanh, vệ sinh môi trường theo đúng quy định của Nhà nước.
Nhìn chung, thời gian này sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ còn nhiều hạn chế, do chưa quy hoạch tổng thể và định hướng cơ cấu ngành nghề, địa bàn, chưa thực hiện tốt chính sách hỗ trợ tín dụng, miễn giảm thuế, thông tin kinh tế - kỹ thuật - thị trường nên các cơ sở sản xuất, kinh doanh còn ở quy mô nhỏ, thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh trên thị trường còn thấp.
Sản xuất nông nghiệp của thị xã trong 5 năm 1991- 1995 vẫn ổn định và có mặt tiến bộ. Thị ủy đã quan tâm chỉ đạo sản xuất lương thực, thực phẩm, hướng tới đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp toàn diện, nâng dần trình độ thâm canh, xen canh, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, thực phẩm và vật nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp; gắn phát triển nông nghiệp toàn diện với xây dựng nông thôn mới cũng như xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội khác ở nông thôn.
Thị ủy đã chỉ đạo phát động công tác khuyến nông, khuyến ngư đều khắp, đưa khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng, chọn giống thích hợp với thổ nhưỡng, tăng nhanh năng suất, sản lượng lúa hằng năm. Công tác thủy lợi nội đồng được quan tâm chỉ đạo, quy hoạch phân vùng cụ thể đầu tư thủy lợi có trọng điểm, khôi phục lại những công trình xuống cấp, thu phí thủy lợi để vừa giảm vốn cấp từ ngân sách vừa nâng cao hiệu quả sử dụng. Công tác thủy lợi được tập trung cho khu vực phường 7 và xã Long Đức, nhằm hình thành vành đai ngăn mặn khép kín, vừa phục vụ phát triển mạng lưới giao thông nông thôn. Thị xã đã đầu tư trên 1 tỷ đồng để đúc cống bọng, đắp đập, nạo vét kinh, cơ bản đã khép kín được một số vùng sản xuất và bước đầu phát huy tác dụng, giải quyết được phần nào nước tưới và xổ phèn cho vụ hè thu, thâm canh cây lúa từ 1 vụ lên 2 vụ được 200ha. Thị ủy cũng chỉ đạo thực hiện tốt mạng lưới dịch vụ vật tư nông nghiệp để kịp thời phục vụ sản xuất và bảo đảm chất lượng phân bón và thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Đồng thời tạo điều kiện cho nông dân vay vốn để sản xuất.
Song song với phát triển cây lúa, thị xã đã tận dụng hết diện tích để trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, đẩy mạnh phong trào nuôi tôm, cá trong nhân dân, Tổ chức nhân rộng mô hình VAC (Vườn - Ao - Chuồng), cung cấp một phần cây giống, con giống và thức ăn gia súc để tăng nhanh sản lượng lương thực - thực phẩm. Nhờ đó, diện tích màu trên ruộng tiếp tục phát triển, phá thế độc canh cây lúa. Cây màu lương thực - thực phẩm phát triển mạnh, đạt diện tích 211ha, sản lượng màu quy thóc là 2.415 tấn, góp phần tăng vòng quay của đất. Nông dân từng bước thực hiện cải tạo vườn tạp, hình thành được nhiều khu vườn đặc sản ở xã Long Đức. Năm 1995, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 7.441,2 tấn, trong đó lúa là 6.886 tấn. Phong trào chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng có bước phát triển. Bên cạnh đó, thị xã cũng đẩy mạnh tận dụng mặt nước ao hồ để nuôi trồng thủy sản, kết hợp với khai thác, đánh bắt, toàn thị xã có 59 ghe lưới, đánh bắt hằng năm đạt 1.500 tấn, có 21 cơ sở nuôi cá giống, bán ra khoảng 13 triệu con/năm. Năm 1995, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 22,963 tỷ đồng, tăng bình quân 4,45%/năm; trong đó cơ cấu cây trồng chiếm tỷ trọng 65,4%, chăn nuôi chiếm tỷ trọng 34,6%.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và chủ trương của Tỉnh ủy Trà Vinh về đổi mới quản lý trong nông nghiệp, Thị ủy đã chỉ đạo giải quyết cơ bản tình hình tranh chấp quyền sử dụng đất trong nội bộ nhân dân, cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân. Hộ được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, từng bước hình thành sự liên kết hợp tác giữa các hộ với nhau để thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực hiện Chỉ thị số 84/TTg ngày 03-3-1993 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 02/CT-UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh, thị xã thành lập được 5 hợp tác xã, 3 tổ sản xuất nông nghiệp, 3 quỹ tín dụng nhân dân. Việc tổ chức tốt các loại hình tổ, hội sản xuất trong nông dân, kết hợp với phát động phong trào thực hiện nếp sống văn hóa đã góp phần từng bước đổi mới bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy rõ: hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp còn rất thấp, các công trình thủy lợi tuy được đầu tư nhiều hơn nhưng thiếu quan tâm khai thác và chưa có biện pháp quản lý thích hợp. Việc xây dựng các hình thức hợp tác mới, các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nông nghiệp còn mang tính tự phát. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp chưa tích cực.
Về xây dựng - giao thông - đô thị và ngân sách: Thị ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thị xã và các ngành, các cấp thực hiện hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể thị xã Trà Vinh đến năm 2010. Trên cơ sở đó, đã tiến hành phân khu chức năng và địa giới hành chính phù hợp với đặc điểm từng phường, xã gắn với việc xây dựng phố, phường tự quản. Thực hiện Chỉ thị số 317-CT/TTg ngày 26-5-1995 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 36/CP ngày 29-5-1995 của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, Thị ủy đã có kế hoạch tuyên truyền phát động nhân dân và phối hợp với Ủy ban nhân dân thị xã và Ủy ban nhân dân các phường, xã tổ chức giải tỏa, sắp xếp trật tự giao thông trên các tuyến đường chính, trong khu vực chợ Trà Vinh, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đa số tự giác chấp hành... Tuy nhiên, việc giải tỏa cũng ảnh hưởng đến đời sống của một số người buôn bán nhỏ và một số loại xe lôi, xe gắn máy chưa có chỗ ổn định sau khi di dời bến bãi.
Thị xã đã tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh và các ngành liên quan như điện lực, cầu đường, cấp thoát nước, tạo điều kiện cần thiết cùng với thị xã xây dựng và duy tu, bảo dưỡng các công trình đô thị. Kết cấu hạ tầng của thị xã được tỉnh quan tâm chỉ đạo để thị xã được xây dựng ngang tầm với vị trí là thị xã tỉnh lỵ. Thị xã đầu tư có trọng điểm cho các công trình phúc lợi công cộng như cầu đưòng, trạm xá, trường học, hệ thống cấp thoát nước nội ô, công viên cây xanh... Ngoài các công trình do thị xã đảm nhận như nâng cấp đường Quang Trung, Lê Lợi, Phan Chu Trinh, Đồng Khởi, đường khóm 4 phường 5..., tỉnh đã chỉ đạo, nâng cấp, xây dựng hệ thống thoát nước và vỉa hè đường Trần Phú, Trần Quốc Tuấn, Phạm Hồng Thái, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Điện Biên Phủ, Phan Đình Phùng, xây dựng bến xe mới, nâng cấp hương lộ 12 thành quốc lộ 54,... với tổng kinh phí đầu tư trên 14 tỷ đồng, từng bước làm bộ mặt thị xã khang trang, sạch đẹp hơn.
Giao thông nông thôn được bảo đảm liên ấp. Hiện trạng cầu khỉ, cầu tre không còn, thay vào đó là cầu ván, cầu bê tông. Các phường nội ô vận động nhân dân tráng xi măng, đổ đất, gạch vụn đường hẻm, bảo đảm cho việc đi lại sạch sẽ hơn. Tuy có nhiều cố gắng, nhưng giao thông nông thôn vẫn chưa được tập trung đúng mức, việc đầu tư xây dựng đường giao thông ở xã Long Đức chưa tập trung, kéo dài, nhiều nơi đi lại còn khó khăn. Mạng lưới điện thắp sáng công cộng được đầu tư lắp đặt cơ bản hoàn chỉnh trên các tuyến đường trong nội ô thị xã, vừa phục vụ cho nhân dân đi lại, vừa hạn chế tệ nạn xã hội. Vấn đề về điện sinh hoạt ở xã Long Đức và các phường ven thị xã được quan tâm chỉ đạo với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng lo” tạo thêm sự đổi mới ở nông thôn theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII. Trong những năm 1992-1993 đã dẫn điện về một số ấp như Vĩnh Hội, Long Đại, Ba Trường, Vĩnh Hưng, Phú Hòa... Tính đến năm 1995 đã có 60% số hộ dân được sử dụng điện.
Tuy nhiên, việc xây dựng kết cấu hạ tầng chủ yếu còn dựa vào nguồn vốn có hạn của Nhà nước, chưa tìm ra phương thức thích hợp để huy động sức dân cùng tham gia. Việc thực hiện chương trình kiến thiết thị chính, xóa nhà lụp sụp, đô thị xanh - sạch chưa đạt yêu cầu theo chương trình hành động của Thị ủy đề ra.
Năm 1993 là năm đầu tiên thị xã thực hiện theo cấp dự toán ngân sách, nên bước đầu còn gặp không ít khó khăn, không chủ động được nguồn kinh phí cho các mặt hoạt động, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và các yêu cầu chi cấp thiết của thị xã. Thị xã đã có nhiều cố gắng, tranh thủ được sự hỗ trợ của tỉnh trong thực hiện thu - chi ngân sách, bảo đảm cơ bản các yêu cầu hoạt động của thị xã. Cuối năm 1993, thị xã đã thực hiện xong bước 2 giai đoạn II công tác thanh toán nợ. Nhìn chung, công tác thanh toán nợ tiến hành còn chậm vì hầu hết các đơn vị sản xuất - kinh doanh cũ đã giải thể, mặt khác do các đối tượng có liên quan chưa thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm.
Từ năm 1993 đến năm 1995, công tác điều hành và quản lý tài chính ngân sách có nhiều tiến bộ. Ban Thanh toán công nợ tiếp tục thực hiện bước 3 giai đoạn II, phân tích nguyên nhân phát sinh nợ để đề nghị xử lý theo đúng quy định của Nhà nước. Thực hiện đúng Pháp lệnh thuế, kiểm tra xử lý nghiêm những người trốn thuế, thiếu thuế. Tuy nhiên, hiện tượng thất thu thuế còn xảy ra, nhất là đối với ngành giao thông và xây dựng. Đến năm 1995, các phường, xã đã tự cân đối được ngân sách.
3. Phát triển các mặt văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân
Do đặc điểm của thị xã tỉnh lỵ, việc tăng dân số cơ học diễn ra khá nhanh. Do đó, vấn đề được Đảng bộ thị xã quan tâm hàng đầu là giải quyết việc làm cho người lao động thông qua việc phát triển kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường. Qua điều tra cơ bản năm 1993, số lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm không ổn định trên địa bàn thị xã còn chiếm tỷ lệ khá cao. Nhằm từng bước giải quyết vấn đề này, thị xã đã chỉ đạo xây dựng và đề nghị tỉnh duyệt 51 dự án sản xuất, chăn nuôi với số vốn xin vay trên 3,5 tỷ đồng để giải quyết việc làm cho 2.155 lao động. Có 9 dự án được duyệt với tổng số vốn vay 740 triệu đồng. Bên cạnh đó, các ngành, đoàn thể và một số phường đã tổ chức chỉ đạo trợ vốn bằng nhiều hình thức với số tiền 13 triệu đồng, 15,5 chỉ vàng và 30 giạ lúa, giải quyết việc làm cho 1.010 lao động.
Thị ủy cũng chú trọng chỉ đạo tạo việc làm cho đối tượng thanh niên và số lao động có tay nghề kỹ thuật nhằm phát huy hết khả năng lao động của các đối tượng này. Thị ủy cũng chỉ đạo kết hợp với các công ty, xí nghiệp của tỉnh đóng trên địa bàn thị xã giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ. Mặt khác, khuyến khích cá nhân và tập thể lao động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, nâng cao mức sống từ thành quả lao động và hiệu quả kinh tế do chính mình làm ra. Tính từ năm 1991 đến năm 1995, thị xã đã giải quyết được khoảng 4.000 việc làm cho người lao động.
Chương trình xóa đói, giảm nghèo đã đáp ứng được nhu cầu của gần 50% số hộ nghèo đói, tổng nguồn vốn của chương trình là 1,707 tỷ đồng, đã hỗ trợ cho 1.775 hộ vay vốn phát triển kinh tế hộ, từ đó cuộc sống của nhiều người dân lao động được nâng lên, cơ bản xóa được số hộ đói. Chương trình này dần được phát triển trở thành phong trào xã hội hóa.
Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được phát triển rộng rãi và được duy trì tốt. Thị ủy chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác thông tin đại chúng, mở rộng mạng lưới thông tin để đáp ứng yêu cầu tuyên truyền, phát động thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nâng cao kiến thức phổ thông trong sản xuất và đời sống của nhân dân. Đài Truyền thanh thị xã đã được củng cố, đáp ứng được yêu cầu, hướng dẫn nhân dân xây dựng “nếp sống văn minh - gia đình văn hóa” theo quy định của Ban chỉ đạo nếp sống mới của Trung ương, tuy nhiên đến năm 1995, mô hình này vẫn còn hạn chế là chưa được tổng kết và nhân rộng. Phương tiện nghe nhìn cũng phát triển, bình quân 2 hộ có 1 radio - cassette, 5 hộ có 1 tivi, 20 hộ có 1 đầu máy video. Tình trạng kinh doanh và lưu hành các loại văn hóa phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội vẫn còn diễn ra, chưa có sự kiểm tra chặt chẽ; các biện pháp đấu tranh ngăn chặn thiếu đồng bộ và chưa tương xứng.
Thị ủy cũng chỉ đạo khuyến khích sáng tác các tác phẩm văn học - nghệ thuật có giá trị, củng cố, sắp xếp lại hoạt động của Chi hội Văn học nghệ thuật thị xã. Tăng cường tổ chức và quản lý các hoạt động văn hóa, có chú ý đến vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc. Thị ủy cũng chỉ đạo kiên quyết đấu tranh với các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, cờ bạc, bài trừ các loại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại trong đời sống xã hội.
Thị ủy cũng rất chú trọng chỉ đạo đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể, tập thể dục - thể thao trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt chú ý đến đối tượng thanh niên và học sinh. Tiếp tục quan tâm nâng cao chất lượng các bộ môn thể thao mũi nhọn như bóng chuyền. Tổ chức các giải thể thao định kỳ hằng năm cho các bộ môn thể thao có phong trào tốt. Cải tiến tổ chức các hoạt động thể dục - thể thao theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội. Kết hợp với tỉnh đào tạo phát triển thể thao thành tích cao và xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ thể dục thể thao. Nhờ được sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư của Đảng bộ, các đội thể thao của thị xã đi dự thi cấp tỉnh và toàn quốc đã đạt được nhiều thành tích cao: Năm 1993, Đội bóng chuyền thị xã đạt hạng nhì giải B toàn quốc, Đội bóng đá thị xã đạt giải nhất toàn tỉnh. Năm 1995, đoàn thể thao của thị xã đạt giải nhất toàn đoàn trong Đại hội thể dục thể thao toàn tỉnh...
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong chỉ đạo và thực hiện công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao, nhưng vẫn chưa ngang tầm với thị xã tỉnh lỵ.
Công tác y tế được giữ vững và có nhiều tiến bộ, phương pháp điều trị kết hợp đông - tây y, thực hiện tốt các chương trình quốc gia (đạt từ 95% trở lên). Hoạt động y tế được phát triển nhờ sự kết hợp giữa Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân theo hướng dự phòng là chính. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm, nhất là đối với trẻ em suy dinh dưỡng và trẻ khuyết tật. Công tác vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh được tăng cường. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả một số nguồn viện trợ của nước ngoài trong lĩnh vực y tế. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao khả năng khám và điều trị bệnh, kết hợp bước đầu có hiệu quả y học hiện đại với y học cổ truyền. Cây thuốc nam được chú ý phát động trồng và sử dụng rộng rãi.
Thực hiện Kế hoạch số 09-KH/TƯ ngày 23-12-1994 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về khảo sát đảnh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và 5 (khóa VII), ngày 25-02-1995, Ban Thường vụ Thị ủy thống nhất xây dựng kế hoạch thực hiện khảo sát đánh giá việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và xã hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thị xã. Kết quả cho thấy công tác truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình được nhân dân hưởng ứng tích cực, giảm dần được tỷ lệ tăng dân số hằng năm, kết quả là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 1995 chỉ còn ở mức 1, 6%, vượt chỉ tiêu đề ra của Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ VI là 1,7%. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế: mạng lưới y tế cơ sở chưa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là ở xã Long Đức; việc kiểm tra hành nghề y dược tư nhân thiếu chặt chẽ; việc thực hiện Chỉ thị số 200/TTg ngày 29-4-1994 “đảm bảo nước sạch và vệ sinh môi trường” ở một số nơi còn gặp khó khăn, chưa có biện pháp tháo gỡ.
Công tác giáo dục của thị xã có sự phát triển, nâng cao được chất lượng dạy và học. Trên cơ sở Chương trình hành động của Tỉnh ủy về giáo dục, đào tạo hai năm 1993-1994, ngày 26-3-1993 Thị ủy đã đề ra Chương trình hành động của thị xã nhằm chỉ đạo thực hiện tốt chương trình cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện: đức, trí, thể, mỹ cho học sinh. Chú ý kết hợp 3 môi trường giáo dục học sinh: gia đình - nhà trường - xã hội. Thị xã đã thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường, lớp theo chủ trương của cấp trên phù hợp với điều kiện của thị xã. Tập trung củng cố phát triển giáo dục mầm non; thực hiện chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và phong trào vận động xóa nạn mù chữ. Quan tâm hướng nghiệp cho học sinh và mở lớp học cho trẻ em khuyết tật. Thị ủy cũng rất quan tâm chăm lo đời sống giáo viên, có chế độ đãi ngộ đối với giáo viên dạy giỏi, tuy nhiên đời sống một bộ phận giáo viên còn gặp khó khăn, ảnh hưởng đến việc giảng dạy và học tập.
Nhờ có sự quan tâm, đầu tư, chỉ đạo sát sao của Thị ủy nên số học sinh đến tuổi vào học hằng năm đều tăng. Kết quả thi tốt nghiệp ở các lớp cuối cấp đều đứng nhất - nhì toàn tỉnh. Riêng Trường trung học phổ thông thị xã Trà Vinh đã đạt thành tích 10 năm liền đứng nhất toàn tỉnh về tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Trong 5 năm 1991-1995, thị xã cũng có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia ở các khối lớp 5, lớp 9, lớp 12. Cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học tương đối bảo đảm, cơ bản xóa phòng học tre lá, không còn tình trạng học 3 ca, tuy nhiên cơ sở vật chất trường lớp còn nhiều hạn chế so với yêu cầu. Thị xã là đơn vị đầu tiên trong tỉnh được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ.
Chính sách xã hội được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Thực hiện tốt phong trào đền ơn đáp nghĩa, trong 5 năm 1991-1995, bằng nguồn vốn ngân sách nhà nưóc, thị xã đã vận động các cơ quan và nhân dân đóng góp 395,2 triệu đồng xây dựng 34 căn nhà và sửa chữa 33 căn nhà tình nghĩa, tặng 52 sổ tiết kiệm với số tiền 30,2 triệu đồng. Việc trợ cấp cho đối tượng chính sách và hộ dân nghèo gặp khó khăn trong những ngày lễ, Tết được Đảng bộ quan tâm và chỉ đạo thực hiện thường xuyên. Thị xã Trà Vinh có 30 mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, trong đó có 18 mẹ còn sống, Đảng bộ đã chỉ đạo các cấp, các ngành đón nhận, chăm sóc, phụng dưỡng suốt đòi các mẹ. Thị xã Trà Vinh cũng vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và 1 liệt sĩ được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thị ủy cũng chỉ đạo thực hiện tốt việc xây dựng quỹ bảo trợ xã hội cho người lao động theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; đẩy mạnh hoạt động của Hội Chữ thập đỏ và các tổ hội từ thiện... để giúp đỡ những người tàn tật, neo đơn và trẻ mồ côi; lập quỹ dự phòng của Nhà nước để chủ động cứu trợ cho những trường hợp quá khó khăn.
Công tác an ninh - quốc phòng, giữ gìn trật tự an toàn xã hội được đẩy mạnh. Địa bàn thị xã là trọng điểm phá hoại của các thế lực thù địch và tập trung các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Chúng luôn tìm cách phá hoại về nhiều mặt, nhất là lợi dụng khó khăn về đời sống để xuyên tạc, kích động làm giảm lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, gây mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội, làm cho tình hình diễn biến ngày càng phức tạp. Vì vậy, Thị ủy thường xuyên chỉ đạo tuyên truyền giáo dục làm cho nội bộ và quần chúng nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch và các loại tội phạm để mọi người không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh - quốc phòng.
Thị ủy chỉ đạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp của Đảng đốì với công tác quốc phòng và lực lượng quân sự. Đặc biệt, ngày 16-3-1993, Thị ủy Trà Vinh đã có Nghị quyết chuyên đề số 01-NQ/TXU về tình huống chuyển địa bàn thị xã từ thời bình sang tình huống khi có chiến sự: biểu tình - gây rối - bạo loạn. Nghị quyết đã căn cứ vào Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Trà Vinh về việc chuyển địa bàn lãnh thổ toàn tỉnh từ thời bình sang tình huống có chiến sự và căn cứ vào thông báo nhận định tình hình của cấp trên, báo cáo của Chỉ huy trưởng Thị đội và các ngành có liên quan. Nghị quyết đã nhận định rõ tình hình của địch, của ta, đề ra yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo cụ thể; đồng thời chỉ rõ các chủ trương và biện pháp tổ chức thực hiện để sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ thị xã khi chiến sự xảy ra.
Quán triệt quan điểm quốc phòng toàn dân, sẵn sàng đánh bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Đảng bộ thị xã đã quan tâm chỉ đạo xây dựng và củng cố lực lượng dân quân tự vệ cả về số lượng và chất lượng. Mỗi phường, xã đều có từ 1-3 trung đội dân quân tự vệ, mỗi ấp, khóm đều có 1 tiểu đội, thường xuyên được giáo dục chính trị, tư tưởng và huấn luyện nâng cao trình độ chiến thuật. Đến năm 1995, lực lượng dân quân tự vệ đạt 3,16% tổng dân số thị xã. Thị xã cũng quản lý chặt chẽ nguồn dự bị động viên. Công tác tuyển quân hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu về số lượng và chất lượng; trong 5 năm 1991-1995 đã đưa 419 thanh niên lên đưòng nhập ngũ, đồng thời xử lý nghiêm những quân nhân đào ngũ, rã ngũ. Thị xã dẫn đầu toàn tỉnh về tổ chức vận hành cơ chế và diễn tập thực binh đạt 100% kế hoạch (8/8 phường, xã).
Bên cạnh đó, Đảng bộ còn tổ chức tốt và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc thông qua các tổ chức nòng cốt như: tổ tự quản, tổ an ninh nhân dân, đội dân phòng..., đồng thời xây dựng lực lượng công an trong sạch về phẩm chất đạo đức, vững vàng về quan điểm chính trị, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. Công an kết hợp với quân đội mở trên 1.000 cuộc tuần tra truy quét, tấn công các loại tội phạm, khám phá, ngăn chặn và xử lý 639 vụ án, góp phần ổn định an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Hội đồng bảo vệ an ninh - trật tự phường, xã và Ban bảo vệ an ninh - trật tự khóm, ấp, tổ đội dân phòng hoạt động có nền nếp, mang lại hiệu quả thiết thực. Ban cán sự Thị đội và Công an Thị xã hằng năm đều có nghị quyết chuyên đề về công tác quân sự, công an, đồng thời bổ sung kế hoạch phòng thủ khu vực, kết hợp với các ngành chức năng ra sức bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Các ngành khối nội chính thực hiện tốt chế độ sinh hoạt định kỳ hằng tháng để nắm tình hình và bàn biện pháp chỉ đạo phối hợp hoạt động. Tòa án xét xử đúng pháp luật. Việc giải quyết đơn khiếu tố của công dân tương đối kịp thời theo đúng quy định của pháp luật, hạn chế đơn tồn đọng kéo dài. Thường xuyên tuyên truyền để nhân dân hiểu và thực hiện tốt các quy định pháp luật.
Trong suốt giai đoạn 1991-1995, an ninh chính trị tuy được giữ vững, nhưng trật tự xã hội còn diễn biến phức tạp. Vẫn để xảy ra tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, và chưa thực hiện tốt trật tự an toàn giao thông. Việc giải quyết đơn, thư khiếu tố của công dân còn tồn đọng, kéo dài. Tình hình chấp hành kỷ cương, pháp luật Nhà nước chưa thực sự nghiêm túc.
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1991-1995), Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, khai thác được tiềm năng và trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, cơ bản thực hiện được những nhiệm vụ, chỉ tiêu đề ra hằng năm và cho cả nhiệm kỳ với những cố gắng, nỗ lực cao nhất. Từ sau Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VI, Đảng bộ và nhân dân toàn thị xã càng ra sức phấn đấu để đưa thị xã Trà Vinh xứng đáng là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Trà Vinh, có nền kinh tế công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại phát triển. Những thành tựu đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đồng thời cũng khẳng định được ý chí tự lực, tự cường vượt qua những khó khăn, phức tạp của Đảng bộ và nhân dân thị xã. Những thành tựu đó cũng là động lực, là tiền đề để Đảng bộ và nhân dân thị xã tiếp tục phát huy trong những giai đoạn tiếp theo.
Tin khác
1 2 3 
TUYÊN TRUYỀN
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 9
  • Hôm nay: 184
  • Trong tuần: 3 871
  • Tất cả: 8756937

WEBSITE BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY TRÀ VINH

Trưởng Ban biên tập: Trần Quốc Tuấn

Chức vụ: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.  

Ghi rõ nguồn "Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TRÀ VINH

Địa chỉ: số 4, Nguyễn Thái Học, Khóm 4, Phường 1, Thành phố Trà Vinh

Điện thoại: 02943.853574 

Email: btgtutravinh@travinh.gov.vn

Website: tuyengiao.travinh.gov.vn