Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông - ngư nghiệp và nông thôn, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân (2005-2010)
Được sự nhất trí của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, từ ngày 28 đến ngày 30-9-2005, Đảng bộ Trà Cú tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005-2010).  

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà Cú lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005-2010) diễn ra trong bối cảnh đất nước sau 20 năm (1986-2005), thực hiện đưòng lối đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và tình hình kinh tế - xã hội của huyện có nhiều chuyển biến tích cực.
Sau khi nhận định về tình hình chung trong cả nước cũng như của tỉnh, nhất là những dự báo tình hình thuận lợi, khó khăn trong 5 năm tới (2005-2010) trên địa bàn huyện, Đại hội đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chung của Đảng bộ trong nhiệm kỳ X là: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân huyện Trà Cú tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy hết tiềm năng và nội lực, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của trên, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của huyện, bảo đảm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn 5 năm trước. Đi đôi với tích cực giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; phấn đấu đến năm 2010 mức thu nhập bình quân đầu người tăng 1,87 lần so năm 2005. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đôn Đảng và hệ thông chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ đề ra”(1) .
Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu về kinh tế cần đạt được trong nhiệm kỳ IX là:
- Nhịp độ tăng trưởng (GDP) bình quân hằng năm tăng 13% trở lên. Đến năm 2010, cơ cấu kinh tế địa phương chuyển dịch theo hướng tỷ trọng trong nông nghiệp còn 36,23%; thủy, hải sản 12,95%; công nghiệp và xây dựng 21,55%; thương mại, dịch vụ 28,27%.
- Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế chủ yếu: nông nghiệp tăng 8,03%, thủy hải sản tăng 17,19%; công nghiệp tăng 18,08%; xây dựng tăng 19,28%; đầu tư phát triển toàn xã hội tăng từ 4 - 5 lần so với thời kỳ 2001-2005.
- Sản lượng một số sản phẩm: lúa đạt 189.200 tấn/năm; màu quy lúa đạt 25.000 tân; thủy hải sản các loại đạt 22.728 tấn/năm (trong đó tôm 5.248 tấn); sản lượng mía hằng năm bình quân 550.000 tấn (tương đương 5.000ha).
- Tổng thu ngân sách tăng bình quân hằng năm từ 12% trở lên. Đến năm 2010, thu đạt 24 tỷ đồng/năm, tăng 2,4 lần so với năm 2005.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IX (nhiệm kỳ 2005-2010). Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu ra Ban Thưòng vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Ngô Văn Khỏe được Ban Chấp hành bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Trần Trung Hiền giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện và đồng chí Kim Thành Thái giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy(2) .
Sau ba ngày làm việc khẩn trương vối tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà Cú lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005-2010) đã hoàn thành chương trình đề ra một cách tốt đẹp. Sự thành công của Đại hội là động lực mạnh mẽ để toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Trà Cú tiếp tục phát huy truyền thông cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng bộ đề ra.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005-2010), sau 5 năm (2005-2010) nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX, Đảng bộ và nhân dân Trà Cú đã giành được những thành tựu hết sức quan trọng trên các lĩnh vực:
- Trên lĩnh vực kinh tế
Tốc độ tăng tưởng (GDP) bình quân trong 5 năm (2005-2010) tăng 10,9% so với chỉ tiêu Đại hội chưa đạt, do tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới và trong nước (Nghị quyết 13%). Trong đó, nông nghiệp tăng 4,1%, thủy sản tăng 7,2%, công nghiệp tăng 15,8%, xây dựng tăng 18,4%, dịch vụ tăng 18,6%, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng mở, tỷ trọng giá trị nông nghiệp còn 35% (Nghị quyết 36,23%), thủy sản 9% (Nghị quyết 12,95), công nghiệp 11% (Nghị quyết 10,44%), xây dựng 12% (Nghị quyết 11%) và dịch vụ 33% (Nghị quyết 29,27%).
Thu nhập bình quân đầu người 9 triệu đồng/người/năm; so với năm 2005 tăng 1,57 lần.
Nông nghiệp từng bước phát triển toàn diện: Điều đáng ghi nhận là trong chỉ đạo nông nghiệp đã tạo được nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, nhất là đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phân vùng sản xuất hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh; đưa cơ giới hóa vào sản xuất, thu hoạch; xã hội hóa công tác giống, nhất là Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long và Trường Đại học Cần Thơ đã trực tiếp khảo nghiệm nghiên cứu các tiểu vùng, vùng đất Trà Cú để đề xuất với huyện bố trí giống hợp lý. Trong 5 năm (2005-2010) đã chuyển đổi được 5.759ha đất kém hiệu quả sang sản xuất những loại giống mới có hiệu quả, hệ số sử dụng đất lên 1,73 lần, tổng sản lượng lúa năm 2010 đạt 194.850 tấn, tăng 13,2% so năm 2005. Giá trị kinh tế trên một hécta diện tích gieo trồng đạt 47 triệu đồng, cá biệt có những mô hình của hộ nông dân lên đến gần 60 triệu đồng/năm, tăng trên 8,3 triệu đồng so với năm 2005.
Thủy sản: sản lượng thủy - hải sản đạt 22.927 tấn, trong đó có 2.593 tấn tôm, tăng 9.200 tấn so với năm 2005. Năng lực khai thác, đánh bắt thủy sản tiếp tục phát triển. Đến cuối năm 2010, toàn huyện có 217 tàu, tăng 18 tàu so với năm 2005; thông tin liên lạc phục vụ cho đánh bắt hải sản được trang bị đủ điều kiện và hiện đại. Nuôi thủy sản phát triển mạnh nhất là ở vùng láng và các xã ven sông Hậu.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển: Một số ngành công nghiệp chế biến thủy sản, đường, lương thực, thực phẩm phát triển mạnh, tăng giá trị của ngành 15,8%; thu hút đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động Công ty giày da Mỹ Phong. Các làng nghề trong huyện được đầu tư duy trì và phát triển.
Thương mại - dịch vụ có bước chuyển biến tích cực và hiệu quả: Giá trị của ngành tăng 18,6%, các trung tâm chợ huyện - xã - thị trấn được đầu tư nâng cấp; khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tiêu thụ, thu mua nông sản địa phương. Toàn huyện có 1.968 đơn vị hoạt động loại hình đại lý, cơ sở sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tài chính - tín dụng: Công tác quản lý, điều hành ngân sách ngày càng đi vào nền nếp. Tổng vốn đầu tư 549,22 tỷ đồng, trong đó đầu tư kích cầu ưu đãi lãi suất 140,76 tỷ đồng, bình quân hằng năm đầu tư tăng 20%. Đặc biệt, đầu tư vốn chỉ định cho hộ nghèo, sinh viên nghèo vay trên 51,01%.
Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Dù kinh tế trong nước, trong tỉnh từng lúc gặp rất nhiều khó khăn do tác động suy thoái của nền kinh tế thế giới, song Đảng bộ vẫn tập trung chỉ đạo huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong 5 năm (2005-2010), đã huy động vốn đầu tư toàn xã hội 3.141 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nưóc 21,8%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4,3%, vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp ngoài quốc doanh 22,89%, các nguồn vốn khác 51,01%.
Về thủy lợi, huyện đã chỉ đạo thực hiện mới tuyến đê bao Cà Hom - Bến Bạ xã Hàm Tân, Sà Lôn - Lộ sỏi thuộc xã Đại An và Đôn Xuân; đào mới và nạo vét 100,38km kênh cấp II, 366km kênh cấp III; đắp mới 17km đê biển, ll,15km đê sông; xây dựng thêm 2 công đầu mối. Đầu tư đưa vào sử dụng 25,3km đường nhựa, 30,9km đưòng bê tông giao thông nông thôn. Cuối năm 2010, toàn huyện có 123km đường nhựa, 197km đường bê tông giao thông nông thôn; 19/19 xã - thị trấn có đưòng ô tô đến trung tâm, trên 90% ấp - khóm có đường bê tông giao thông nông thôn. Đầu tư xây dựng mới 48 cầu, sửa chữa 63 cầu giao thông nông thôn. Các đường quốc lộ 53, 54 được nâng cấp.
Hộ sử dụng điện tiếp tục được phát triển. Trên địa bàn huyện phát triển thêm 21,6km đường dây trung thế, 30,25km đường dây hạ thế, 38 trạm biến thế. Đến cuối năm 2010, toàn huyện có 38.118 hộ sử dụng điện, đạt 95%. Đầu tư xây dựng 63 trạm cung cấp nước sinh hoạt, tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh chiếm 91% so tổng số hộ dân.
Kinh tế hợp tác, hợp tác xã, kinh tế trang trại, được củng cố và phát triển: Đến cuối năm 2010, huyện có 22 hợp tác xã, 323 kinh tế trang trại các loại, trên 586 tổ hợp tác sản xuất, 3 quỹ tín dụng nhân dân.
- Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, từng bước kết hợp hài hòa hơn với phát triển kinh tế, diện mạo văn hóa nông thôn ngày càng phát triển; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tập trung chỉ đạo thực hiện Đề án xây dựng huyện điểm văn hóa (Bộ Văn hóa và Thông tin và Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh phối hợp chỉ đạo). Song song đó, huyện tập trung thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư (khóa IX) về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng bộ huyện xác định xây dựng gia đình là vấn đề lớn, hết sức hệ trọng của dân tộc và của thời đại, nên đã chỉ đạo tập trung công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng về tầm quan trọng, vị trí và vai trò của gia đình và công tác xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đổi mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình, nâng cao hiểu biết về Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc sống gia đình. Giáo dục những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, nêu gương người tốt, việc tốt, các mô hình hỗ trợ gia đình có hiệu quả, phê phán những biểu hiện không đúng, không lành mạnh trước cuộc sống gia đình. Kịp thời ngăn ngừa thông tin và sản phẩm văn hóa xấu bên ngoài tác động vào gia đình. Quản lý và thiêu hủy hàng ngàn loại sản phẩm sách, báo, băng đĩa, tài liệu phản động, khiêu dâm, kích dục không hợp với thuần phong mỹ tục, đạo đức con người Việt Nam. Ban Chỉ đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” huyện gắn kết nội dung xây dựng gia đình trong thời kỳ đổi mới là một trong những tiêu chí không thể thiếu khi công nhận ấp - khóm, xã - thị trấn, gia đình văn hóa. Bên cạnh đó, Huyện còn tập trung triển khai Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc” theo Quyết định số 1865/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh. Hoạt động văn hóa - thông tin - thể dục thể thao có nhiều tiến bộ và chất lượng trong hoạt động; bình quân mức hưởng thụ văn hóa - nghệ thuật 10 lần/người/ năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa được tiếp tục duy trì và phát triển, huyện tập trung chỉ đạo nâng cấp và công nhận mối ấp - khóm, xã - thị trấn, gia đình văn hóa. Đến cuối năm 2010, toàn huyện có 34.000/41.012 hộ được công nhận Gia đình văn hóa; 125/160 ấp - khóm văn hóa; 3 xã - thị trấn văn hóa (thị trấn Trà Cú, xã Đại An, xã Định An); 78 cơ quan, 38 cơ sở tín ngưỡng tôn giáo đạt chuẩn nếp sống văn minh. Hằng năm, huyện tổ chửc vinh danh các gia đình văn hóa tiêu biểu, tổ chức chức liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng. Hằng tuần, tổ chức giọng hát hay cả 2 thể loại tân nhạc và cổ nhạc. Đội Thông tin lưu động huyện xây dựng nhiều chương trình, kịch bản mới đi phục vụ tận vùng sâu, vùng xa. Đài Truyền thanh huyện, Trạm truyền thanh xã - thị trấn bảo đảm chương trình hoạt động hai buổi thường xuyên với nội dung mới, phản ánh kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào Quốc phòng toàn dân, phản ánh gương người tốt, việc tốt...
Tháng 10-2004, Đảng bộ huyện chỉ đạo sơ kết 5 năm (1998-2003) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đồng thời triển khai thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đảng bộ đã xác định Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) có ý nghĩa chiến lược về văn hóa của cách mạng nướ ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết là một nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ta, làm cho nền tảng tinh thần của chế độ, của xã hội nước ta ngày càng vững chắc, tiến bộ, phong phú, góp phần giữ vững độc lập, thống nhất, định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy nhanh quá trình phát triển đất nước. Với tinh thần đó, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tiến hành củng cố Ban Chỉ đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từ huyện xuống cơ sở, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX), tiến hành chỉ đạo xây dựng và nâng cao chất lượng ấp - khóm - xã, thị trấn văn hóa, xã Định An (nay là xã Định An, thị trấn Định An) là xã được Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận xã đạt chuẩn văn hóa đầu tiên của huyện Trà Cú và toàn huyện công nhận được 126/160 ấp, khóm đạt chuẩn văn hóa, 34.000 gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa, đạt 86,8%.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, huyện đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Toàn huyện có 9/72 trường được cấp trên công nhận trưòng đạt chuẩn quốc gia. Số lượng giáo viên được tăng cường và chuẩn hóa, học sinh đi học ngày càng tăng. Huy động các nguồn đầu tư xây dựng mới 362 phòng học, 38 nhà công vụ cho giáo viên. Đến cuối nhiệm kỳ, toàn huyện có 788 phòng học cơ bản, chiếm 96,26% so tổng số phòng học. Công tác giáo dục trong đồng bào dân tộc Khmer luôn được Đảng bộ quan tâm; thực hiện tốt các chính sách tuyển cử; xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học, xã hội học tập.
Thực hiện tốt mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông, phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, tăng tỷ lệ học sinh phổ thông trung học, tăng số người biết ngoại ngữ, nâng mặt bằng dân trí vùng căn cứ kháng chiến, vùng đồng bào dân tộc.
Cùng với đầu tư nâng cấp và xây dựng mới cơ sở trường lớp để cải thiện điều kiện dạy và học, đã tăng cường chất lượng giáo dục lên một bước mới theo hướng bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ giáo viên hiện có, đào tạo bổ sung giáo viên mới tương ứng với số lượng học sinh trong huyện. Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí và giúp đỡ các con em gia đình nghèo được học hành, quan tâm tạo điều kiện dạy và học tốt hơn. Phát huy hiệu quả giáo dục của Trường phổ thông dân tộc nội trú, chấn chỉnh tổ chức và giúp đỡ các lớp dạy học song ngữ.
Các hoạt động thể dục - thể thao tiếp tục phát triển, cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư.
Trong nhiệm kỳ IX, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư, Kế hoạch số 08-KH/TU “Về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”. Qua chỉ đạo, được sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, mạng lưới y tế cơ sở trong những năm qua thực hiện có hiệu quả trong việc tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh. Qua đó đã tác động ý thức của người dân tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh.
Tăng cường và mở rộng mạng lưới khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, đến cuối năm 2010, huyện có 5 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác tổ chức mạng lưới y tế cơ sở được chấn chỉnh và chuẩn hóa, hoạt động ngày càng có hiệu quả, y đức ngày càng được nâng lên, thái độ phục vụ bệnh nhân tốt.
Giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo trên cơ sở tích cực triển khai thực hiện các mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế xã - xã hội của nhiệm kỳ. Đảng bộ đã chỉ đạo mỗi xã, ấp tiến hành thống kê nắm chắc danh sách hộ không có việc làm, hộ nghèo đói, mức độ nghèo đói và nguyên nhân; đồng thời đã khắc phục từng bước, từng thời gian cụ thể. Đặc biệt, vận động đối tượng nâng cao ý chí tự lực của hộ tự giải quyết việc làm cho mình, tự xoay sở làm thêm vụ, thêm nghề để thoát khỏi nghèo đói. Động viên hộ khá, hộ giàu tương trợ vốn, công cụ, vật tư và chỉ dẫn kinh nghiệm làm ăn cho hộ nghèo đói để vươn lên, qua đó đã xây dựng tình đoàn kết xóm làng ngày thêm khắng khít.
Công tác đền ơn đáp nghĩa luôn được Đảng bộ huyện xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Đến cuối nhiệm kỳ IX, huyện đã hoàn thành hồ sơ và được phong tặng, truy tặng 78 Mẹ Việt Nam Anh hùng, 1.995 liệt sĩ, 603 thương, bệnh binh, 392 người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày, 63 cán bộ tiền khởi nghĩa, 11.449 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương, Huy chương các loại, xây dựng 8 nhà bia ghi tên liệt sĩ với tổng kinh phí hơn 5 tỷ đồng.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, hệ thống ngành y tế ngày càng được củng cố, hoạt động chất lượng. Huyện đã thành lập Phòng y tế; đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện, trạm y tế xã - thị trấn; triển khai thành lập Trung tâm y tế dự phòng; cấp thẻ bảo hiểm y tế hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đặc biệt, các trạm y tế xã - thị trấn đều có bác sĩ luân phiên, đáp ứng nhu cầu khám và điều trị bệnh cho nhân dân. Thực hiện đạt chỉ tiêu các chương trình quốc gia về y tế, dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, phòng chống dịch bệnh, nhất là dịch H5N1… Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưõng còn 11,42%; giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,32%. Trà Cú là một trong những huyện của tỉnh Trà Vinh thực hiện tốt việc hoạt động kế hoạch hóa gia đình, hằng năm thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu sinh đẻ có kế hoạch.
Thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo: Kinh tế vùng đồng bào dân tộc Khmer tiếp tục được phát triển, đời sông nhân dân được nâng lên, lao động phổ thông được đào tạo nghề, diện mạo văn hóa vùng nông thôn Khmer ngày càng được đổi mới, gia đình được công nhận gia đình văn hóa năm sau cao hơn năm trước, chất lượng gia đình văn hóa ngày càng được nâng cao, nạn thất nghiệp được kéo giảm; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thông của đồng bào dân tộc, khôi phục các lễ hội truyền thống lịch sử kháng chiến, văn hóa tôn giáo - tâm linh của đồng bào dân tộc Khmer.
Giải quyết các vấn đề bức xúc về văn hóa xã hội như việc làm, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, giảm tốc độ tăng dân số, ngăn chặn văn hóa đồi trụy, phản động và lối sống không lành mạnh... nhằm chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, thực hiện nhiệm vụ chính trị đã đề ra. Với nhiệm vụ chính trị quan trọng này, Đảng bộ tập trung chỉ đạo tiến hành theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, phối hợp hoạt động liên ngành chức năng đi đôi với huy động sự đóng góp của toàn xã hội.
- Lĩnh vực quốc phòng - an ninh
An ninh và quốc phòng được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh nông thôn, góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, tạo được lòng tin bền vững giữa Đảng với dân, chính quyền với nhân dân; nhân dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế gia đình. Các ngành chức năng đã chủ động phối hợp với các ngành, các cấp trong huyện chủ động phát hiện đấu tranh vô hiệu hóa nhiểu hoạt động của các phần tử phản động, thu giữ kịp thời những tài liệu phản cách mạng, hạn chế được các hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Song song đó, Công an huyện đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp tấn công, truy quét các loại tội phạm; phát huy thế mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với phong trào xây dựng đơn vị an toàn về an ninh trật tự, đã góp phần kéo giảm phạm pháp hình sự, đẩy lùi tệ nạn xã hội, kiềm chế và kéo giảm tai nạn giao thông, tạo môi trường văn hóa nông thôn ngày càng khởi sắc.
Huyện ủy tiến hành chỉ đạo triển khai quán triệt Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư về tăng cường cuộc đấu tranh chống ấm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
Quán triệt Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư, Đảng bộ đã xây dựng kế hoạch và tiến hành triển khai sâu rộng từ trong nội bộ đến tận quần chúng nhân dân, nhằm: Tạo chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể về âm mưu, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình” và coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần được tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trên cơ sở thấy rõ những âm mưu, thủ đoạn ngày càng nham hiểm, tinh vi của các thế lực thù địch, để kịp thời đánh tan những mầm mống xuất hiện trên địa bàn.
Tiếp tục quán triệt và thực các nghị quyết của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Quán triệt tinh thần đó, huyện Đảng bộ tập trung lãnh đạo nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong nội bộ và ngoài quần chúng nhân dân, không để kẻ địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, quan hệ hợp tác kinh tế, hoạt động từ thiện, tham quan du lịch... để tiến hành hoạt động chống phá cách mạng. Tăng cường xây dựng và nâng cao chất lượng lực lượng an ninh nhân dân, dân quân tự vệ và dự bị động viên, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự tại xóm, ấp. Song song đó, Huyện còn ra sức quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang thường trực đáp ứng nhiệm vụ phòng thủ ở các địa bàn trọng điểm. Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện quản lý chặt chẽ nhân khẩu và hộ khẩu, đối tượng, địa bàn và chủ động phát hiện, đấu tranh có hiệu quả chống các loại tội phạm.
Lãnh đạo tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ huyện và chiến đấu trị an cấp cơ sở, ấp - khóm. Lực lượng dân quân tự vệ chiếm 1,66% dân số; lực lượng dự bị động viên xếp vào các đơn vị đạt 98,89%. Thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh; hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, tuyển sinh quân sự, công an hằng năm; thực hiện tốt các Quyết định 47, 290, 188 và 142 của Thủ tướng Chính phủ và chính sách hậu phương quân đội.
Làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, làm cho mọi người tự giác chấp hành và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Trong nhiệm kỳ IX, các cơ quan pháp luật đã chủ động kết hợp với Mặt trận và các cơ quan đoàn thể chính trị - xã hội đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm, đã phát hiện và xử lý bằng nhiều hình thức, hàng trăm loại tội phạm phá rối trật tự an toàn xã hội và các loại tội phạm khác.
- Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể
Về xây dựng Đảng: Công tác xây dựng Đảng, có nhiều chuyển biến, thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, Đảng bộ luôn quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương (khóa X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên”, “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”. Huyện ủy xây dựng Nghị quyết 03, Kế hoạch 20 về tăng cường củng cố tổ chức cơ sở đảng gắn với công tác vận động quần chúng, nâng cao vai trò lãnh đạo, điều hành của Chi bộ ấp - khóm gắn với việc phân công cấp ủy. Thành lập mới 13 tổ chức cơ sở đảng. Đến tháng 10-2010, Đảng bộ có 64 tổ chức cơ sở đảng, 3.788 đảng viên; 65,77% tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, tăng 11,1% so năm 2005; 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Công tác cán bộ có bước chuyển biến, việc nhận xét, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ thực hiện đúng quy trình, dân chủ, thực hiện tốt “nguyên tắc tập trung dân chủ”, “quy chế dân chủ ở cơ sở, dân chủ cơ quan”. Giải quyết chính sách cho cán bộ nghỉ việc theo Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 8-8-2007 về chính sách tinh giản biên chế của Chính phủ giai đoạn 2008-2011 gồm 147 đồng chí, theo Quyết định số 222 của Tỉnh ủy gồm 121 đồng chí. Quyết định điều động, bổ nhiệm 108 cán bộ; luân chuyển 11 cán bộ; đưa đi đào tạo, bồi dưỡng từ cấp tỉnh trở lên 809 lượt cán bộ, bồi dưỡng ngắn hạn cho 1.099 lượt cán bộ; Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện mở 129 lớp bồi dưỡng ngắn hạn có 13.000 lượt cán bộ theo học; nhận 59 sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại xã - thị trấn góp phần vào việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ trẻ ở cơ sở. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra, giám sát luôn được quan tâm; kịp thời rà soát, thẩm tra, xác minh, kết luận phục vụ cho công tác quy hoạch, đào tạo, đề bạt cán bộ và kết nạp đảng viên mới.
Song song đó, Đảng bộ còn xây dựng Kế hoạch triển khai quán triệt Quy định số 115-QĐ/TW ngày 7-12-2007 của Bộ Chính trị về “Những điều Đảng viên không được làm”. Qua thực tế, Đảng bộ luôn theo sát và nhìn chung đảng viên trong Đảng bộ luôn chấp hành tốt Quy định số 115-QĐ/TW của Bộ Chính trị.
Về xây dựng chính quyền: Nâng cao vai trò và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong huyện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
Thực hiện cải cách nền hành chính Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật, thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới và phát triển huyện nhà theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới của Đảng.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo chấn chỉnh thủ tục hành chính ở các lĩnh vực như: Thủ tục vay vốn tín dụng ngân hàng, thủ tục đăng ký cấp phép kinh doanh, thủ tục về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, thủ tục giải quyết khiếu kiện tranh chấp tài sản và đất đai. Quy định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan, công chức, viên chức trong việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu kiện của dân, đã khắc phục được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.
Song song đó, Đảng bộ huyện cũng chỉ đạo tốt việc sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền các cấp. Thực hiện tốt quy định chế độ công vụ và quy chế công chức, tiêu chuẩn chức danh làm căn cứ cho việc sắp xếp, đào tạo đãi ngộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, từng bước làm trong sạch và nâng cao chất lượng bộ máy chính quyền cấp huyện và xã - thị trấn.
Về xây dựng các đoàn thể: Phương pháp lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác dân vận, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể có sự chuyển biến, phương thức tổ chức hoạt động được đổi mới. Chỉ đạo tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã - thị trấn bầu. Thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; các cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “An sinh xã hội” được tổ chức và thực hiện có hiệu quả. Tổ chức thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong nhiệm kỳ IX, bên cạnh công tác lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, Huyện ủy Trà Cú còn tập trung chỉ đạo tốt một số nghị quyết quan trọng của Trung ương và Tỉnh ủy Trà Vinh như:
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chương trình hành động của Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Với sự nỗ lực cao của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn huyện đã có sự chuyển biến tích cực cả trong nhận thức, hành động và đã đạt được những kết quả nhất định. Các giải pháp phòng ngừa đã được triển khai một cách đồng bộ và sâu rộng, nhất là việc triển khai quán triệt các văn bản của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhằm thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, huyện đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, thực hiện công khai, minh bạch. Công tác cải cách thủ tục hành chính, nhất là công tác phát hiện xử lý tham nhũng được tăng cường. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế có hiệu quả, không để xảy ra những vụ, việc nghiêm trọng, phức tạp. Những kết quả đạt được khẳng định những chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), các luật có liên quan và chương trình hành động của Tỉnh ủy, của Huyện ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) là đúng đắn và phù hợp. Tuy nhiên, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn một số nội dung chưa đạt yêu cầu, nhất là công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa được thường xuyên, liên tục. Khả năng nắm bắt thông tin của người dân còn hạn chế. Tình hình tham nhũng, lãng phí tuy đã được kiềm chế, kéo giảm, nhưng nhìn chung vẫn còn biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện, nhất là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; đấu thầu đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý tài chính, ngân sách; tín dụng ngân hàng đăng ký cấp phép... gây bức xúc trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước ở địa phương.
Triển khai quán triệt nghị quyết của Đảng, của Tỉnh ủy Trà Vinh, làm cho nội bộ Đảng đến quần chúng nhân dân nhận thức rõ và sâu sắc hơn những chủ trương thiết thực trong thời kỳ xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng bộ tập trung triển khai Kết luận 37-KL/TW ngày 2-2-2009 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về “Tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”. Căn cứ vào Kế hoạch số 26-KH/TU của Tỉnh ủy ngày 9-7-2009, Ban Thường vụ Huyện ủy tiến hành xây dựng kế hoạch thực hiện Kết luận số 37-KL/TW của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) và Kế hoạch của Tỉnh ủy.
Triển khai quán triệt tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Toàn Đảng bộ xác định rõ công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình, trong đó có cấp ủy Đảng là hạt nhân lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu, cụ thể thực thi các chính sách về công tác phụ nữ và cán bộ nữ. Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp với vai trò nòng cốt, chủ động tham mưu đề xuất và phối hợp thực hiện. Phát huy vai trò, tiềm năng của lực lượng phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu phát triển của huyện trong giai đoạn mới, góp phần cùng cả tỉnh, cả nước phát huy tích cực “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Dảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Qua đó, Đảng bộ huyện tập trung xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức Đảng ở cơ sở vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thông nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở đạt yêu cầu, làm nòng cốt trong hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở .
Nhìn chung trong nhiệm kỳ IX, Đảng bộ và nhân dân huyện Trà Cú tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tự lực tự cường vượt qua nhiều khó khăn, thực hiện hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội. Kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu có bước chuyển dịch theo hướng tích cực và bền vững. Huy động tốt các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, điện nước sinh hoạt, tạo cho bộ mặt văn hóa huyện ngày càng thêm khởi sắc. Sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa - xã hội có bước phát triển khá. Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng lên, thực hiện tốt các tiêu chí xây dựng huyện điểm văn hóa, xây dựng ấp - khóm, xã - thị trấn văn hóa, gia đình văn hóa. Chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách người có công, an sinh xã hội được thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định. Hệ thống chính trị được quan tâm củng cố và tăng cường. Dân chủ ở cơ sở được mở rộng.
Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ IX là do có sự đoàn kết, nhất trí cao của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy trong lãnh đạo và điều hành; năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, điều hành của Ủy ban nhân dân được nâng lên. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo có tập trung dồn sức cho những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm. Thường xuyên kiểm tra sơ, tổng kết, kịp thời tháo gỡ những vấn dề khó khăn, vướng mắc. Phát huy tốt vai trò tham mưu của các cơ quan khối Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội - nghề nghiệp.
Bên cạnh những thành tựu trên cũng còn những mặt tồn tại, yếu kém như: Kinh tế phát triển chậm, kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu; hộ nghèo, cận nghèo chiếm tỷ lệ còn cao; đời sống của một phận nhân dân còn nhiều khó khăn, tích lũy tái đầu tư cho sản xuất chưa nhiều. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ còn hạn chế so với yêu cầu.
Nhìn lại 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-2010), kinh tế - xã hội của huyện Trà Cú đã có sự phát triển cả về chất và lượng, thể hiện trên một số lĩnh vực:
Trên lĩnh vực kinh tế: Trước đây trong sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là hình thức quốc doanh, hợp tác xã; trong sản xuất nông nghiệp là hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; thương mại - dịch vụ cũng là các cửa hàng quốc doanh, hợp tác xã mua bán. Các hình thức tổ chức kinh doanh mang nặng tính chủ quan, quan liêu, bao cấp, không xuất phát từ thực tiễn khách quan ở trong một tình trạng lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển, vì vậy đã làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nhưng từ khi có đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ huyện Trà Cú quán triệt nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và vận dụng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những sai lầm khuyết điểm trước đây. Hướng dẫn, tổ chức lại các thành phần kinh tế theo những chủ trương đổi mới của Đảng. Vì vậy, đã đưa nền kinh tế của địa phương phát triển nhanh, tăng nhiều lần so với trước (như nông nghiệp bình quân 20.000ha, năng suất bình quân 2,5 tấn/năm (Nghị quyết nhiệm kỳ IV) tăng lên 5-6 tấn/ năm (Nghị quyết nhiệm kỳ IX). Tốc độ tăng trưởng GDP 5 năm 2005 - 2010 tăng 10,9%, trong đó nông nghiệp 4,1%, thủy sản 7,2%, công nghiệp 15,8%, xây dựng 18,4%, dịch vụ 18,6%, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng giá trị nông nghiệp còn 35%, thủy sản 9%, công nghiệp 11%, xây dựng 12%, dịch vụ 33%. Thu nhập bình quân đầu người trên 9 triệu đồng/năm (năm 1986 thu nhập đầu người xấp xỉ 2,3 triệu đồng/năm). Cùng với kinh tế phát triển nhanh, bộ mặt văn hóa nông thôn cũng thay đổi khác hẳn so với trước. Từ một huyện đường giao thông chính cũng như giao thông nông thôn mùa mưa lầy lội, mùa nắng cát bụi đi lại rất khó khăn, nay Trà Cú trở thành một huyện khang trang, bộ mặt văn hóa ngày càng thêm khởi sắc. Trà Cú lại có nhiều điểm tham quan du lịch như: cảng cá Định An, Trung tâm Văn hóa huyện, Khu di tích Lưu Cừ II xã Lưu Nghiệp Anh, du lịch trên sông nưốc, chùa Cò, bãi cát trên tuyến sông Hậu (thuộc các xã Hàm Tân, Lưu Nghiệp Anh, An Quảng Hữu, Kim Sơn). Tất cả đã và đang tạo điều kiện cho một Trà Cú vươn lên văn minh, xây dựng thành huyện điểm văn hóa có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Trên lĩnh vực xã hội: An ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội được giữ vững, nền quốc phòng toàn dân luôn được củng cố và xây dựng. Hệ thống chính trị và khôi đại đoàn kết toàn dân ngày càng được tăng cường và củng cố. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được vận dụng trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương. Phát triển văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu để phát triển kinh tế - xã hội; phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, ra sức xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; triển khai và thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”...

Chú thích:
(1) Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX, tr.12, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Huyện ủy Trà Cú.
(2) Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX, tr.12, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Huyện ủy Trà Cú.

Tin khác
1 2 3 4 
TUYÊN TRUYỀN
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 8
  • Hôm nay: 862
  • Trong tuần: 3 855
  • Tất cả: 8754297

WEBSITE BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY TRÀ VINH

Trưởng Ban biên tập: Trần Quốc Tuấn

Chức vụ: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.  

Ghi rõ nguồn "Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TRÀ VINH

Địa chỉ: số 4, Nguyễn Thái Học, Khóm 4, Phường 1, Thành phố Trà Vinh

Điện thoại: 02943.853574 

Email: btgtutravinh@travinh.gov.vn

Website: tuyengiao.travinh.gov.vn