ĐOÀN KẾT, ĐỔI MỚI, PHÁT HUY CÁC NGUỒN LỰC DỰA VÀO DÂN - TỔ CHỨC LẠI ĐỂ PHÁT TRIỂN, XÂY DỰNG THỊ XÃ TRÀ VINH TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH (2005-2010)
Chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2005-2010) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Ban Thường vụ Thị ủy Trà Vinh đã chỉ đạo thành công các Đại hội Đảng cấp cơ sở và toàn Đảng bộ đã long trọng tiến hành Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ IX, Đại hội Đảng bộ lần thứ hai của thị xã trong thế kỷ XXI.
Đại hội Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005-2010)
Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ IX được tổ chức từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 10 năm 2005. Tham dự Đại hội có 250 đại biểu đại diện cho 44 chi, đảng bộ trực thuộc và 1.800 đảng viên của toàn Đảng bộ với chủ đề “Đoàn kết, đổi mới, phát huy các nguồn lực, dựa vào dân - tổ chức lại để phát triển”. Đồng chí Nguyễn Thái Bình, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Dương Hoàng Nghĩa, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã về dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội đã nêu rõ những kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ VIII nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém cần khắc phục trong nhiệm kỳ 2005-2010. Đại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2005-2010. Trong đó nhấn mạnh những mục tiêu chủ yếu cần đạt được:
Một là, thực hiện chủ đề“Đoàn kết, đổi mới, phát huy các nguồn lực - dựa vào dân, tổ chức lại để phát triển”, phấn đấu đến cuối năm 2007 về cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại III, đến năm 2010 trở thành đô thị phát triển có những nét đặc trưng riêng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long; có một số cơ sở và sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - du lịch, chợ trung tâm, đường phố và khu đô thị mới thể hiện vị trí trung tâm tỉnh lỵ, có quan hệ giao lưu kinh tế với các tỉnh bạn và các trung tâm kinh tế khác ở khu vực; có mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1.000 USD/năm và tỷ lệ hộ nghèo hằng năm giảm 2%.
Hai là, tập trung chỉ đạo xây dựng mô hình xã hội hóa về đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị và xây dựng các loại hình tổ chức kinh tế; mô hình xã hội hóa và lồng ghép giữa hoạt dộng sự nghiệp với kinh doanh dịch vụ trên các lĩnh vực y tế - giáo dục - văn hóa - thể dục - thể thao và du lịch; mô hình khóm, ấp, phường văn hóa gắn với xây dựng đường phố  và bộ mặt đô thị văn minh, an toàn về trật tự đô thị; mô hình lồng ghép giữa tổ chức chính trị - chính trị - xã hội với tổ chức kinh tế và chuyên ngành.
Ba là, tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Bốn là, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, trước hết là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; xây dựng chính quyền thị xã, phường, xã trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả; phát huy vai trò của các tổ chức như dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã nhiệm kỳ 2005-2010 đã bầu được 39 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã (trong đó có: 4 đồng chí nữ, tăng 2 đồng chí so với nhiệm kỳ trước; 2 đồng chí người dân tộc thiểu số; tuổi bình quân 40,5 tuổi, giảm 04 tuổi so với nhiệm kỳ trước); Ban Thường vụ có 11 đồng chí.
Tại phiên họp đầu tiên của Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã khóa IX, đồng chí Nguyễn Văn Phong được bầu làm Bí thư Thị ủy (đến tháng 3-2006, đồng chí Trần Văn Đảnh thay đồng chí Phong làm Bí thư), đồng chí Nguyễn Thành Tẩm thay đồng chí Phan Hải đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, đồng chí Nguyễn Việt Thanh làm Phó Bí thư thường trực thay đồng chí Nguyễn Thành Tẩm.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố  lần thứ IX, tháng 9-2008, Đảng bộ thành phố đã tổ chức kiểm điểm giữa nhiệm kỳ, nghiêm túc xem xét tình hình thực hiện các chủ trương của Đảng bộ về phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng hệ thống chính trị, an ninh - quốc phòng của thành phố ; đánh giá những ưu khuyết điểm, nguyên nhân, xem xét những thuận lợi và khó khăn để kịp thời có những giải pháp điều chỉnh, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực phát triển theo đúng các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ thành phố  lần thứ IX đã đề ra.
Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Trà Vinh lần thứ IX trong bối cảnh cả nước cũng như địa phương tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế - xã hội có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, đất nước ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức do tình hình khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, do nền kinh tế vẫn còn ở trình độ phát triển thấp, thiên tai dịch bệnh diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân, năng lực cán bộ, trình độ nguồn nhân lực và trình độ dân trí vẫn còn nhiều hạn chế, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn những yếu tố  phức tạp. Thị xã tiếp tục kế thừa và phát huy những thành tựu của đổi mới mà các nhiệm kỳ trước đã tạo ra. Những chủ trương, chính sách, pháp luật mới của Đảng và Nhà nước về phát triển đô thị ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Đặc biệt là, ngày 21-6-2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số  08/NQ-TU về phát triển thị xã Trà Vinh đến năm 2010, đây chính là tiền đề và cơ sở cần thiết để thị xã đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa theo tiêu chí trở thành đô thị loại III. Và điều này đã trở thành hiện thực, tháng 3 năm 2010 thị xã Trà Vinh được công nhận là thành phố thuộc tỉnh (1).
1. Tập trung chỉ đạo phát huy các nguồn lực, xây dựng thị xã Trà Vinh xứng đáng là thành phố thuộc tỉnh
Nhằm tập trung tạo sự chuyển biến mới về phát triển kinh tế và quản lý đô thị, Đảng bộ thành phố tiếp tục xác định và chỉ đạo phát triển cơ cấu kinh tế của thành phố là sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ và nông nghiệp. Đảng bộ thành phố cũng hoàn thành phê duyệt và tổ chức triển khai quán triệt nội dung Quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố  đến năm 2010 và 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch chỉ đạo lập mới và điều chỉnh một số nội dung quy hoạch chuyên ngành về phát triển kinh tế, trước mắt triển khai nhanh quy hoạch chi tiết sử dụng đất gắn với quy hoạch chi tiết các làng nghề, phát triển hệ thống chợ, khu du lịch sinh thái và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tích cực tạo điều kiện về đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế thành phố. Bên cạnh việc chú trọng chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ triển khai và thực hiện các phương án huy động vốn đầu tư theo đúng tinh thần chủ đề Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố  “dựa vào dân - tổ chức lại để phát triển”, Đảng bộ thị xã chỉ đạo gắn chặt việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật với chủ trương triển khai, di dời các cơ sở công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường trong nội thành ra ngoại thành. Chỉ đạo tập trung khai thác tối đa các nguồn lực, phối hợp tốt với các huyện, các vùng lân cận và các doanh nghiệp để đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nâng tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong GDP của thành phố . Ưu tiên và khuyến khích đối với các ngành nghề thuộc thế mạnh của thành phố  như: cơ khí, sản xuất, sửa chữa và gia công; chế biến thực phẩm; sản xuất thức ăn phục vụ chăn nuôi; dịch vụ phục vụ nuôi trồng và khai thác thủy sản; mua bán kinh doanh vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp và một số sản phẩm cần ưu tiên khác với hình thức giao đất có thu tiền để làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và thu theo giá vốn, tạo điều kiện cho người sử dụng đất trực tiếp góp vốn và tham gia làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, nhằm giảm bốt thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thi công hoàn thành và đưa vào sử dụng, giảm giá thành trên một đơn vị diện tích đất thương phẩm và có lợi nhiều mặt cho người sử dụng đất. Đảng bộ thành phố  đã coi đây là mô hình đột phá và áp dụng cho các công trình kinh tế có nội dung tương tự. Phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý dự án của tỉnh, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và triển khai thi công theo hình thức cuốn chiếu để hoàn thành và đưa vào khai thác các công trình của Trung ương và tỉnh đầu tư trên địa bàn. Đồng thời, sau khi xảy ra khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, Đảng bộ quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận với các chính sách kích cầu kinh tế của Chính phủ.
Đảng bộ cũng phát động phong trào thi đua nhằm phát triển kinh tế thành phố. Mỗi phường, xã và đoàn thể thành phố lựa chọn, đăng ký với Ban chỉ đạo thi đua, làm kế hoạch và tập trung chỉ đạo xây dựng mỗi khóm, ấp ít nhất có một hộ làm kinh tế giỏi và sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, mỗi phường, xã có ít nhất 1 trang trại hoặc 1 doanh nghiệp dân doanh, 1 hợp tác xã đạt tiêu chuẩn mô hình. Thành phố  cũng chọn một số doanh nghiệp, hợp tác xã và đơn vị liên doanh có điều kiện để tập trung chỉ đạo xây dựng mô hình và làm cho các đơn vị được chọn xây dựng mô hình biết quan tâm gắn bó và phục vụ các yêu cầu phát triển của địa phương. Thành phố  cũng chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị sản xuất, kinh doanh của tỉnh và Trung ương đóng trên địa bàn, các đơn vị đầu tư vào khu công nghiệp Long Đức, để tác động hỗ trợ góp phần thúc đẩy kinh tế thành phố  phát triển.
Nhò đó, trong 5 năm 2005-2010, kinh tế thành phố đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, với mức tăng GDP bình quân 14,09%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển, giữ vai trò trung tâm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Năm 2010, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, nông nghiệp - thủy sản tương ứng là: 36,09% - 58.22% - 5,69%. So với cơ cấu kinh tế ngành mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố đề ra là 40,29% - 54,37% - 5,34% thì cơ bản đã đạt được. Thu nhập bình quân đầu người đạt 1.112USD (21,12 triệu đồng) năm 2010, tăng 374USD so với năm 2005, đạt 111,2% so với mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố đề ra. Tuy nhiên, hạn chế của thành phố trong phát triển kinh tế giai đoạn 2005-2010 là tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố có tăng, nhưng thực lực chưa mạnh, chưa đủ sức cạnh tranh; một số lĩnh vực kinh tế chưa được chỉ đạo phát triển tương xứng với tiềm năng của trung tâm tỉnh lỵ.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh, với các sản phẩm đa dạng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Nhờ chỉ đạo phối hợp thực hiện tốt kế hoạch khuyến công, tổ chức các lớp đào tạo nghề, chú trọng nghề bậc cao phù hợp với nhu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh và thành phố, tổ chức tham gia học hỏi kinh nghiệm, hỗ trợ tư vấn cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh những kiến thức mới, những kỹ năng quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, do đó tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trong 5 năm 2005-2010 đạt 5.980,9 tỷ đồng, tăng bình quân 15,35%; xây dựng đạt 1.571 tỷ đồng, tăng 23,24%. Đến năm 2010, có 32 doanh nghiệp, 640 cơ sở sản xuất cá thể, giải quyết việc làm cho 6.049 lao động. Khu công nghiệp Long Đức đã hoàn thành cơ bản hạ tầng kỹ thuật và tiếp tục mở rộng thu hút được 16 dự án, với tổng số vốn đầu tư đăng ký 405 tỷ đồng và 23,46 triệu USD; có 10 dự án đã đi vào hoạt động; 6 dự án đang triển khai đầu tư, nhiều sản phẩm mới phát trỉển mạnh như hóa chất, sản phẩm ngành in, thức ăn thủy sản... được tiêu thụ trong nội địa và xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho trên 5.000 lao động. Tiểu thủ công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, một số ngành nghề phát triển khá như cơ khí, gia công cửa sắt, cửa nhôm, chế biến lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa đạt mục tiêu đề ra, còn phân tán và khó xử lý về môi trường. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, nhưng quy mô nhỏ.
Thương mại - dịch vụ phát triển năng động, chất lượng phục vụ được nâng lên, thể hiện được vai trò trung tâm phân phối hàng hóa và cung cấp dịch vụ của tỉnh. Các ngành dịch vụ phát triểh mạnh như: vận tải, công nghệ thông tin, ngân hàng, tổ chức tín dụng, bảo hiểm, tư vấn đầu tư xây dựng, du lịch, bưu chính viễn thông, y tế…
Nhờ có sự chỉ đạo sát sao của Thành ủy và các biện pháp thực hiện của ủy ban nhân dân thành phố nên tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ của thành phố nhiệm kỳ 2005-2010 thực hiện đạt 12.480 tỷ đồng, tăng 14,23% so với nhiệm kỳ trước (2001-2005). Năm 2008, thành phố có 6.030 cơ sở, trong đó có 286 doanh nghiệp; đến năm 2010, đã tăng lên 5.942 cơ sở, trong đó có 370 doanh nghiệp. Đến năm 2008, thành phố đã đầu tư trên 700 triệu đồng để cải tạo nâng cấp chợ Trung tâm, chợ Bạch Đằng, chợ thủy sản, Trung tâm thương mại; hoàn thành và đưa vào khai thác chợ phường 9; đang triển khai các thủ tục đầu tư xây dựng chợ khóm 3 phường 1; hoàn thành quy hoạch chợ phường 8. Thành phố  cũng tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, chi nhánh ngân hàng, chi nhánh bảo hiểm... với tổng nguồn vốn trên 500 tỷ đồng. Dịch vụ du lịch phát triển nhanh với hơn 70 khách sạn, nhà nghỉ, doanh thu năm 2010 đạt trên 100 tỷ đồng, tăng trên 50% so với năm 2005. Tuy nhiên, hệ thống chợ và lĩnh vực du lịch vẫn đang trong tình trạng yếu kém về cơ sở vật chất.
Dịch vụ tài chính, tín dụng phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và thành phố.  Hiện có 16 chi nhánh ngân hàng, 4 quỹ tín dụng nhân dân, tổng vốn huy động đạt 2.695,87 tỷ đồng, tăng bình quân 26,7%/năm, doanh số cho vay đạt 3.602,08 tỷ đồng, tăng bình quân 25%/năm, dư nợ cho vay đạt 4.491,11 tỷ đồng, tăng 41,17%. Thực hiện chính sách kích cầu của Chính phủ, thành phố đã hỗ trợ, tạo điều kiện cho 7.173 doanh nghiệp và hộ cá thể vay vốn với lãi suất ưu đãi được 1.234 tỷ đồng, góp phần rất quan trọng trong việc vượt qua suy thoái kinh tế, ổn định tình hình sản xuất, kinh doanh.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển. Đảng bộ đã chỉ đạo các phường, xã còn giữ diện tích đất sản xuất nông nghiệp ổn định lâu dài tiến hành việc lập và hoàn thành phê duyệt quy hoạch chi tiết sử dụng đất gắn với quy hoạch chuyển đổi cô cấu cây trồng, vật nuôi, định hướng, thiết kế, tập trung chỉ đạo đầu tư xây dựng một số  mô hình cụ thể trong nông nghiệp, nhất là mô hình liên doanh nuôi thủy sản hàng hóa, mô hình trồng rau trong nhà lưới, mô hình đô thị vườn kết hợp du lịch sinh thái và kinh doanh tổng hợp... Đồng thời, chỉ đạo thực hiện tốt công tác khuyến nông và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân áp dụng vào sản xuất. Đảng bộ cũng tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Chương trình hành động của Tỉnh ủy và Kế hoạch của Thị ủy “về nông nghiệp, nông dân và nông thôn” gắn với triển khai thực hiện Đề án xây dựng “nông thôn mới” tại xã Long Đức.
Nhờ chú trọng chuyển đổi cơ cấu sản xuất và áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật theo đúng sự chỉ đạo của Đảng bộ, nên trong 5 năm 2005-2010 đã chuyển đổi được 550ha đất trồng lúa kém hiệu quả; từng bước hình thành các vùng chuyên canh nuôi thủy sản, trồng màu, cây cảnh, hoa kiểng, cây con giống có giá trị kinh tế cao. Một số  mô hình chăn nuôi quy mô gia đình và quy mô trang trại phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Qua các mô hình này, Đảng bộ đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức rút kinh nghiệm và phát huy nhân rộng. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp - thủy sản trong nhiệm kỳ 2005-2010 đạt 632,5 tỷ đồng, tăng 16,6% so nhiệm kỳ 2001-2005. Tuy vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển đổi còn chậm, sản xuất tập trung chuyên canh còn hạn chế.
Kết cấu hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư, đến nay cơ bản hoàn thành hệ thống thủy lợi nội đồng Khu C Láng Thé, xây dựng Trạm cấp nước, kè chống sạt lở và đê bao Long Trị, điện, trường, trạm ở xã Long Đức với kinh phí trên 50 tỷ đồng, góp phần làm cho bộ mặt nông thôn được đổi mới.
Đến năm 2010, toàn thành phố có 5 hợp tác xã, 4 quỹ tín dụng nhân dân với 5.536 xã viên, 349 tổ hợp tác sản xuất với 6.690 thành viên, giải quyết việc làm cho 9.857 lao động. Có 5 trang trại đang hoạt động và có trên 50 hộ sản xuất theo hình thức trang trại, phần lớn các trang trại hoạt động có hiệu quả là trong lĩnh vực sản xuất giống thủy sản. Tuy nhiên, kinh tế tập thể chưa mạnh, hiệu quả hoạt động không cao.
Về cân đối thu chi ngân sách: Đảng bộ đã chỉ đạo xây dựng ngân sách thành phố  - phường, xã đủ khả năng đảm đương theo chức năng, nhiệm vụ, thể hiện rõ vai trò tham mưu vể mặt tài chính. Thành phố đã tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn thu, nhất là thu từ đất và xây dựng cơ bản, không để nợ đọng dây dưa, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm vể thực hiện nghĩa vụ thuế theo đúng quy định của pháp luật...
Nhờ thực hiện tổng thể các biện pháp nhằm tăng thu tiết kiệm chi, nên tổng thu ngân sách trên địa bàn trong nửa đầu nhiệm kỳ (2005-2008) chỉ đạt 216,23 tỷ đồng, thì nửa sau nhiệm kỳ đã có mức tăng đáng kể, giúp cho tổng thu ngân sách trên địa bàn trong cả nhiệm kỳ 5 năm (2005-2010) đạt 533,591 tỷ đồng; bình quân tăng 9,77%/năm. Chi ngân sách từng bước đi vào nền nếp, tiết kiệm, cân đối được thu chi và có tích lũy, sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn kết dư cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chỉnh trang nâng cấp đô thị. Huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 2.953 tỷ đồng, tăng 1,95 lần so với nhiệm kỳ 2001-2005, bằng 105,5% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII của thành phố  đề ra. Tuy nhiên, công tác thu ngân sách còn nhiều hạn chế, chống thất thu và khai thác nguồn thu chưa đạt yêu cầu.
Về kiềm chế lạm phát, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp chống lạm phát, thực hành tiết kiệm theo chủ trương của Chính phủ như thực hành tiết kiệm chống lãng phí, giảm chi tiêu ở các phòng ban của thành phố và ủy ban nhân dân các phường, xã; đồng thời tập trung vốn ưu tiên đầu tư cho các công trình trọng điểm phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các công trình nâng cấp đô thị và hỗ trợ giải quyết khó khăn cho hộ nghèo, đối tượng chính sách. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định niêm yết giá và bán theo giá niêm yết đối với các mặt hàng thiết yếu như: lương thực, xăng dầu, phân bón, thuốc chữa bệnh, sắt thép, xi măng...; thực hiện tốt việc quản lý thị trường chống buôn lậu, gian lận thương mại, ổn định đời sống nhân dân.
Đầu tư xây dựng và quản lý đô thị có nhiều chuyển biến, tiến trình đô thị hóa và xã hội hóa được thực hiện tích cực. Để thực hiện mục tiêu xây dựng thị xã Trà Vinh trở thành đô thị loại III vào nảm 2007, là thành phố thuộc tỉnh vào năm 2010. Đảng bộ đã coi nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải nâng trình độ chỉ đạo quy hoạch và tổ chức thực hiện theo quy hoạch của Đảng bộ thị xã, phường, xã lên một bước mới và thực hiện đồng bộ một loạt các giải pháp:
Dựa vào Quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2010 đến năm 2020 của thị xã Trà Vinh trước đây, tiến hành điều chỉnh những mặt còn bất cập và không trùng khớp của quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất đang có hiệu lực. Đẩy mạnh tiến độ, nâng cao chất lượng và tính khả thi của việc lập, thẩm định phê duyệt, công bố cắm mốc định vị các đề án quy hoạch chi tiết về xây dựng đã được phê duyệt, nhất là quy hoạch lại các khu dân cư và chỉnh trang đô thị.
Gắn quy hoạch với đầu tư và tăng cường quản lý hành chính nhà nước cấp thị xã, phường, xã để thực hiện đúng, triển khai nhanh và đạt yêu cầu theo quy hoạch. Tập trung nghiên cứu, triển khai thử nghiệm mô hình theo các phương án liên kết để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật gắn với đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tìm ra mô hình tối ưu nhất để phát huy và nhân rộng. Tăng cường việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với thực hiện nghiêm các biện pháp quản lý hành chính theo pháp luật về đất đai, xây dựng để phát triển đô thị. Dựa vào tiêu chí đô thị loại III, Luật đất đai năm 2003 và các văn bản có liên quan khác để xây dựng các đề cương phương án thực hiện quy hoạch chi tiết, tổ chức lấy ý kiến nhân dân, theo phương châm: “Dân biết - dân bàn - dân làm - dân kiểm tra” và dân đóng góp - hưởng lợi để xây dựng các công trình theo quy định của pháp luật.
Đảng bộ cũng chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đầu tư hạ tầng kỹ thuật để tập trung hoàn thành 8 tiêu chí chưa đạt đô thị loại III theo Nghị quyết 08 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (trong số 20 tiêu chí yêu cầu để đạt đô thị loại III, đến cuối năm 2005 đã đạt được 12 tiêu chí), trong đó có 3 tiêu chí quan trọng là: diện tích xây dựng các công trình công cộng, dịch vụ; tỷ lệ đất giao thông; và mật độ đường phố. Xác định rõ và lập khái toán theo đơn giá thực tế để biết số vốn cần phải đầu tư theo các ngành: giao thông, thủy lợi, thoát nước, văn hóa - thể thao, giáo dục, hệ thống chợ, trụ sở làm việc..., phân chia ra từng giai đoạn và tập trung vào 5 nguồn vốn: vốn ngân sách tỉnh và Trung ương, vốn ngân sách địa phương, vốn ODA, vốn huy động từ doanh nghiệp và nhân dân, đặc biệt là vốn huy động các nguồn thu từ quỹ đất.
Ủy ban nhân dân thị xã chỉ đạo các ngành chức năng tham mưu đề xuất với ủy ban nhân dân tỉnh ban hành cơ chế, chính sách đặc thù nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế và cộng đồng dân cư đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và các công trình đô thị. Trước mắt để nghị ban hành cơ chế định giá đất để áp thuế chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp trước và sau công trình theo nguyên tắc: người nào đầu tư sẽ được hưởng lợi.
Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo lập phương án tổng thể và chi tiết về chỉnh trang và lập lại trật tự đô thị. Kết hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp: hành chính - kinh tế - giáo dục - pháp luật và kiên quyết thực hiện 5 nội dung về trật tư vỉa hè, chỉnh trang mái che, biển hiệu, đèn trang trí, cây xanh, công viên, vòng xoay, dãy phân cách đường, bờ kè sông và các công trình khác để nâng cấp bộ mặt đô thị. Bổ sung và ban hành quy chế phân cấp quản lý đô thị, trong đó quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của từng ban, ngành thị xã, phường, xã. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại hình dịch vụ công để phục vụ quản lý đô thị. Đảng bộ cũng chỉ đạo chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ năng lực để tiếp nhận và triển khai nguồn vốn nâng cấp đô thị thuộc Chương trình nâng cấp đô thị Quốc gia do Ngân hàng Thế giới tài trợ và Chính phủ Việt Nam đầu tư.
Nhờ quyết tâm thực hiện các biện pháp chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ cùng với sự giúp đỡ của tất cả các cơ quan, ban, ngành trong tỉnh và Trung ương, trong 5 năm 2005-2010 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có tính quyết định góp phần được công nhận là đô thị loại III vào tháng 8-2007, là thành phố thuộc tỉnh vào tháng 3-2010: Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị đã được tập trung chỉ đạo nhằm định hướng cho phát triển đô thị, đến năm 2010 có 33 đồ án quy hoạch (được phê duyệt 20 đồ án, đang tiếp tục lập 13 đồ án), với diện tích khoảng 1.958ha. Phối hợp với các ngành chức năng lập quy hoạch khu đô thị phía nam thành phố để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư xây dựng khu đô thị mới. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng công tác quy hoạch, tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển dô thị hiện đại, văn minh.
Đặc biệt, thành phố còn là một trong 6 đô thị được ưu tiên đầu tư theo chương trình nâng cấp đô thị quốc gia của Chính phủ giai đoạn đầu 2011-2017 với vốn vay trên 43 triệu USD của Ngân hàng Thế giới và nguồn vốn cần phải đối ứng trên 22 triệu USD, tập trung cho việc nâng cấp hạ tầng kỹ thuật đối với những khu đô thị có thu nhập thấp. Thành phố đã huy động tốt các nguồn lực cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị với tổng nguồn vốn trên 2.000 tỷ đồng. Đồng thời chỉ đạo nâng cấp, chỉnh trang đô thị theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”: trên 80% vỉa hè được chỉnh trang, nâng cấp với tổng số tiền đầu tư trên 50 tỷ đồng (nhân dân đóng góp 40%). Giai đoạn năm 2006-2008 đã đầu tư hoàn thành đường nội bộ khu tái định cư ấp Long Bình phường 4 (giai đoạn 2); đường giao thông khóm 4, phường 1; đường Phú Hòa - Hòa Hữu; đường liên khóm phường 8, nâng tổng diện tích đất dành cho giao thông trong nội thị là 228.16ha, đạt 16,05% so vói đất đô thị... Công tác giải phóng mặt bằng có sự tập trung cao, một số công trình vướng mắc kéo dài đã được phối hợp chỉ đạo tháo gỡ để triển khai thi công như: đường vành đai, bờ kè sông Long Bình, công viên cây xanh Tượng đài, công trình quốc lộ 53... Chiều dài toàn bộ hệ thống thoát nước trong nội ô thành phố là 62km, hằng năm luôn được thành phố đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống thoát nước, nạo vét các kênh rạch hiện hữu để tăng cường khả năng thoát nước và bảo đảm vệ sinh môi trường. Đến năm 2008 đã bàn giao hệ thống thoát nước cho công ty cấp nước của tỉnh để quản lý đầu tư theo quy định. Có thể nói, công tác xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, mỹ quan đô thị thời gian này có nhiều chuyển biến, nhưng một vài lĩnh vực chưa ngang tầm thành phố. Một số dự án triển khai chậm, đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc, cũng là một nguyên nhân làm cho một số dự án triển khai chậm.
Thực hiện Dự án “Bảo dưỡng cây cổ thụ và trồng mới cây xanh đường phố, công viên”, chỉ tính đến năm 2008 đã trồng mới trên 8.000 cây xanh các loại, bảo dưỡng 700 cây cổ thụ, nâng tổng số lên 19.000 cây xanh với 33 chủng loại được trồng trong thành phố, cao nhất so với các đô thị trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, góp phần tạo nên những nét đặc trưng riêng của thành phố so với các đô thị trong vùng.
Công tác quản lý trật tự đô thị được chú trọng, thường xuyên kiểm tra, giáo dục, xử lý các trường hợp lấn chiếm lòng lề đường, vỉa hè, xây dựng san lấp mặt bằng trái phép gắn với xây dựng nếp sống văn minh đô thị. Bộ mặt đô thị có những thay đổi lớn, ngày càng phát triển theo hướng văn minh, vệ sinh môi trường được cải thiện đáng kể. Thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai, nhà ở, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đạt tỷ lệ 93,08%; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông thôn đạt tỷ lệ 98,67%; sở hữu nhà đạt tỷ lệ 33,55%. Tuy nhiên, việc quản lý đất đai, kiểm tra, xử lý về trật tự đô thị, môi trường từng lúc, từng nơi còn buông lỏng và thiếu kiên quyết.
Đảng bộ đã đề ra yêu cầu phát triển toàn diện văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ đã xác định phải gắn chỉ đạo phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề bức xúc về văn hóa xã hội. Đảng bộ nhận định rõ những vấn đề trọng tâm trong giai đoạn 2005-2010 trên lĩnh vực văn hóa - xã hội đó là phải thực hiện tốt công tác xã hội hóa trên tất cả các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao và thực hiện các chính sách xã hội.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực của thành phố được quan tâm và có bước phát triển. Đảng bộ đã chỉ đạo tiến hành khảo sát, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch mạng lưới trường, lớp đạt chuẩn quốc gia. Quv mô ngành học. bậc học được nâng lên, thành phố đã thành lập mới 3 trường (2 trường mẫu giáo và 1 trường trung học cơ sở); đến năm 2010, trên địa bàn thành phố có 4 trường mầm non, 7 trường mẫu giáo (có 2 trường tư thục), 14 trường tiểu học, 4 trường trung học cơ sở... và các trường trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và cao đẳng; trong đó có 3 trường đạt chuẩn quốc gia (chưa đạt so với kế hoạch đề ra). Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 3 cuộc vận động và các phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, “Hai tốt” ở các trường học theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều năm liền thành phố đã giữ vững được thành tích về giáo dục và đào tạo, tỷ lệ huy động trẻ vào mẫu giáo đạt 92%, trẻ vào lớp 1 đạt 100%, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 83,1%; tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng được kéo giảm ở cả ba cấp học; số học sinh xếp loại khá giỏi và số học sinh trúng tuvển vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hằng năm đều tăng.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm giáo dục thường xuyên thành phố, Trung tâm học tập cộng đồng ở phường, xã đáp ứng được yêu cầu bổ túc văn hóa, dạy nghề và nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người.
Đảng bộ đã chỉ đạo tăng thêm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, do đó đã tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, quan tâm ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho việc dạy và học, 100% trường học kết nối mạng internet. Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục thành phố, phường, xã tiếp tục củng cố và phát huy kết quả xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Đến năm 2010, có 10/10 phường, xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và tiến hành thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông ở phường 1, 2, 3. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đủ số  lượng, đồng bộ về cơ cấu, tỷ lệ chuẩn hóa đạt 98% (tăng 6% so với nhiệm kỳ trước).
Công tác xã hội hóa giáo dục được chú trọng, tuy chưa được thực hiện sâu rộng; phong trào khuyến học, khuyến tài cũng có nhiều bước phát triển. Đảng bộ chỉ đạo tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư mở trường ngoài công lập, nhờ đó đã thành lập được 2 trường dân lập trên dịa bàn thành phố . Đồng thời, phát huy vai trò, tác dụng của các tổ chức đảng, đoàn, đội, Hội đồng giáo dục, Hội Khuyến học, Hội Phụ huynh học sinh trong công tác xã hội hóa giáo dục nhằm thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu đề ra hằng năm. Đảng bộ phát động phong trào huy động đóng góp tiền và hiện vật được gần 4 tỷ đồng (tăng 2,2 lần so với nhiệm kỳ trước) để đỡ đầu cho hàng ngàn học sinh, sinh viên nghèo hiếu học và tu sửa trường lớp, mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy và học.
Đảng bộ quan tâm chỉ đạo làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trong nhiệm kỳ, ngành y tế đã khám và chữa bệnh cho hàng trăm nghìn lượt người, đồng thời chú trọng nâng chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác y tế, nâng cao y đức, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân. Chỉ đạo triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Công tác tuyên truyền, phát động và phòng chống dịch bệnh có sự tập trung cao, nhất là công tác phòng chống dịch cúm A/HlNl và bệnh sốt xuất huyết, nên đều không xảy ra tử vong. Có 8/10 cơ sở y tế phường, xã được công nhận và tái công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế (đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố  đề ra), các trạm y tế đều có bác sĩ phục vụ, 100% khóm, ấp có nhân viên cộng đồng. Có 223 cơ sở y tế tư nhân, góp phần cùng với các cơ sở y tế của Nhà nước thực hiện việc xã hội hóa y tế trên địa bàn, huy động được nguồn lực về vốn và tay nghề trong nhân dân, trong đội ngũ y, bác sĩ. Công tác thanh, kiểm tra, quản lý nhà nước về hành nghề y dược tư nhân, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm đã được chú ý tăng cường, nhưng chưa đúng mức.
Đảng bộ thành phố cũng chỉ đạo tuyên truyền và thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, giữ vững tỷ lệ tăng dân số  tự nhiên 1,02%/năm, đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố  đề ra.
Đảng bộ đặc biệt quan tâm đến công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em. Thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Ban Thường vụ Thành ủy đã có Đảng văn số 30-CV/TXU ngày 4-7-2001 về việc triển khai quán triệt Chỉ thị số  55-CT/TW, và đã triển khai quán triệt cho cán bộ chủ chốt các ban, ngành thành phố và các phường, xã; đồng thời chỉ đạo bí thư các chi bộ, đảng bộ trực thuộc xây dựng kế hoạch triển khai quán triệt đến cán bộ, đảng viên và tuyên truyền sâu rộng trong đoàn, hội viên, quần chúng nhân dân trong phạm vi quản lý. Năm 2010, Thành ủy đã tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số  55-CT/TW. Kết quả là, nhờ có sự quan tâm của toàn thành phố, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm từ 28,66% năm 2001 xuống còn 9,17% năm 2009 (qua giám sát 6 tháng đầu năm 2010 còn 7,96%, gần đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố đề ra là xuống dưới 7%), tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng mở rộng và uống vitamin A hằng năm đều đạt từ 100% trở lên. Công tác cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi được thực hiện tốt, đến năm 2010 đã cấp 8.579 thẻ, đạt tỷ lệ 100%. Ngoài ra, công tác rèn luyện thân thể và giáo dục đạo đức cho trẻ em cũng luôn được quan tâm, giúp cho trẻ em hình thành thói quen lễ phép, ý thức tổ chức kỷ luật và những nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam. Đảng bộ cũng chỉ đạo tạo ra nhiều khu vui chơi, phong trào vui chơi, học tập, rèn luyện thân thể như các câu lạc bộ võ thuật, câu lạc bộ bơi lội, câu lạc bộ điểm 10... Nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi, Tháng hành động vì trẻ em, các ngày Tết cổ truyền, dịp lễ hội hằng năm, các cấp ủy Đảng từ thành phố đến các phường, xã đã chỉ đạo tổ chức nhiều hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em gắn với rèn luyện học tập như tổ chức Hội thi tiếng hát hoa phượng đỏ, Kể chuyện sách thiếu nhi... được đông đảo trẻ em tham gia. Đảng bộ chỉ đạo tốt công tác tập hợp trẻ em vào tổ chức Đội Thiếu niên tiền phong. Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng rất quan tâm chỉ đạo bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ khuyết tật, trẻ mồ côi, trẻ em bị nhiễm chất độc da cam/dioxin... Công tác ngăn ngừa trẻ em vi phạm pháp luật, rơi vào tệ nạn xã hội cũng luôn được quan tâm chỉ đạo.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao, thông tin, truyền thông được đổi mới cả nội dung, hình thức, chất lượng và được đông đảo quần chúng hưởng ứng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã đi vào chiều sâu, đến năm 2010 có 89% số hộ được công nhận gia đình văn hóa, 69/72 khóm, ấp, 4 phường đạt chuẩn văn hóa (tăng mạnh về số lượng so với nhiệm kỳ trước và gần đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IX của thành phố đề ra). Đảng bộ chỉ đạo đầu tư xây dựng Trung tâm Văn hóa - thông tin, sân vận động thành phố , chú trọng xây dựng thiết chế văn hóa ở cơ sở, phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân để đóng góp xây dựng phong trào và các thiết chế văn hóa nhằm tạo ra nhiều điểm sinh hoạt vui chơi, tập luyện cho nhân dân. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa và kiểm tra các hoạt động dịch vụ văn hóa; làm lành mạnh hóa môi trường và cảnh quan đô thị.
Phong trào thể dục - thể thao tiếp tục phát triển, có trên 30% dân số thành phố  tham gia luyện tập thể dục thể thao, các đội tuyển thể dục - thể thao của thành phố  tham gia thi đấu trong và ngoài tỉnh đạt kết quả cao với hơn 425 bộ huy chương các loại.
Tỷ lệ hộ dân có điện thắp sáng đạt 97,21%, gần đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX đề ra là 99%. Hệ thống thông tin - truyền thông phát triển nhanh chóng, công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong đời sống xã hội, có 100 cơ sở kinh doanh dịch vụ internet công cộng, 2.956 đầu thuê bao mạng internet, bình quân sử dụng điện thoại cố định đạt 41 máy/100 hộ dân, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của tổ chức và cá nhân.
Chất lượng hoạt động của Đài Truyền thanh thành phố, trạm truyền thông phường, xã được nâng lên. Thành phố đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị gắn với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ phóng viên, cộng tác viên để ngày càng nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng và số  lượng tin, bài để tích cực tuyên truyền các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Chính sách “đền ơn đáp nghĩa” được chú trọng, bằng nhiều nguồn vốn đã xây dựng và bàn giao 447 căn nhà tình nghĩa, tăng gấp 3 lần so với nhiệm kỳ trước, giải quyết cơ bản nhà ở cho hộ gia đình chính sách thực sự có khó khăn về nhà ở.
Thực hiện tốt chính sách xã hội, tập trung thực hiện chương trình mục tiêu về xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và tín dụng cho hộ nghèo, thành phố đã phê duyệt 85 dự án cho 9.844 hộ vay vốn để phát triển sản xuất với tổng số vốn vay là 41 tỷ đồng; kết hợp với các trung tâm, trường dạy nghề mở nhiều lớp đào tạo nghề, kết quả là đã giải quyết việc làm cho trên 15.168 lao động, trong đó có 4.499 lao động ngoài tỉnh, 10.619 lao động trong tỉnh và 50 lao động xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh việc giảm nghèo tại địa phương, đến năm 2010 còn 1.384 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 6,03% số hộ của thành phố; công tác bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội được thực hiện tốt. Tuy nhiên, công tác quản lý lao động và đào tạo nghề phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vẫn là khâu yếu, xuất khẩu lao động mới đạt tỷ lệ thấp. Hiệu quả của công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm còn hạn chế, nguy cơ tái nghèo còn cao.
Công tác dân tộc - tôn giáo được quan tâm, đoàn kết dân tộc, tôn giáo được tăng cường. Trong 5 năm 2005-2010, Đảng bộ thành phố tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt chính sách dân tộc - tôn giáo theo tinh thần các Nghị quyết Hội nghị Trung ương và các chính sách của Chính phủ. Tháng 9-2008, Thành ủy đã tiến hành tổng kết 5 năm triển khai thực hiện các Nghị quyết số 23, 24, 25 Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, rà soát lại và tiếp tục chỉ đạo triển khai Chương trình hành động số 12-CTr/TXU của Ban Thường vụ Thành ủy ngày 25-8-2003 về “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; “về công tác dân tộc”; “về công tác tôn giáo” gắn với việc triển khai thực hiện Chỉ thị số  68-CT/TW ngày 18-4-1991 của Ban Bí thư về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 8-11-1995 của Ban Bí thư về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 06- NQ/TU của Tỉnh ủy Trà Vinh khóa VII về “phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer. Trong đó, Thành ủy đã nghiêm túc chỉ ra tình trạng công tác dân tộc, tôn giáo trên địa bàn thành phố với những mặt tích cực và những hạn chế cần khắc phục, đồng thời chỉ rõ các biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và các điều kiện nhằm thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo trong giai đoạn tiếp theo.
Quán triệt Chương trình hành động của Thành ủy, thành phố đã tập trung hỗ trợ hộ nghèo đồng bào dân tộc Khmer khó khăn về vốn phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, đã giải ngân cho 488 hộ vay vốn với số  tiền 1.793 tỷ đồng, xây dựng 1.200 căn nhà đại đoàn kết, ổn định cuộc sống của đồng bào dân tộc, giảm được 452 hộ nghèo, đến năm 2010 còn 1.112 hộ dân tộc nghèo, chiếm tỷ lệ 23,73% so với tổng số  hộ người dân tộc Khmer. Tạo điều kiện cho Hội tương tế người Hoa đi vào hoạt động, đồng bào người Hoa được quan tâm phát triển sản xuất, kinh doanh. Nhân các ngày lễ hội của đồng bào dân tộc, Đảng bộ chỉ đạo các cấp, các ngành quan tâm phối hợp tổ chức họp mặt, thăm viếng, tặng quà các chùa, các gia đình chính sách; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao phục vụ vui chơi giải trí của nhân dân; đồng thời, hằng năm đều chi ngân sách hỗ trợ cho đồng bào Khmer nghèo vui Tết Nguyên đán và Chol Chnam Thmây; không để xảy ra thiếu đói trong vùng đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện một số chương trình dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc của Trung ương tại thành phố còn chậm, hiệu quả thấp.
Công tác quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ người dân tộc được chú trọng, trong nhiệm kỳ 2005-2010 đã bố trí cán bộ người dân tộc Khmer - Hoa giữ nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng, chính quyền từ thành phố đến phường, xã. Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số thành phố Trà Vinh lần thứ I đã biểu dương nhiều tấm gương tiêu biểu, khẳng định đường lối nhất quán, sự đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và đồng bào các dân tộc.
Đảng bộ cũng đã triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, dân tộc; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Đối với đồng bào dân tộc Khmer - Hoa và tôn giáo, việc tuyên truyền thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện lồng ghép thông qua tổ chức các lễ hội Chol Chnam Thmây, Ok Om Bok, Sêne Dolta của đồng bào Khmer, lễ hội Phật Đản, Vu Lan... của đồng bào theo đạo Phật, lễ Giáng sinh của đồng bào Công giáo; nêu gương điển hình của người có uy tín trong đồng bào Khmer - Hoa, các vị chức sắc và các cơ sở thờ tự.
Định kỳ hàng quý, 6 tháng, tổng kết năm, Thành ủy có đánh giá cụ thể công tác triển khai thực hiện các nghị quyết; việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; công tác thanh tra nhân dân và công tác hòa giải ở cơ sở; kiểm tra đánh giá việc thực hiện các chính sách đối với người có công với nước, chính sách đối với đồng bào dân tộc và thực hiện pháp lệnh tín ngưỡng - tôn giáo...
Đảng bộ cũng lãnh đạo chính quyền quản lý công tác tôn giáo từng bước chặt chẽ hơn. Đảng bộ và chính quyền đã quan tâm giải quyết các yêu cầu chính đáng của Công giáo, tổ chức Đại hội đại biểu những người công giáo yêu nước lần thứ I; tạo điều kiện cho các tôn giáo sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức các lễ hội theo đúng Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3-2005 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Kịp thời biểu dương khen thưởng các gương điển hình của tập thể và cá nhân các vị chức sắc, đồng bào có đạo đã có nhiều công lao đóng góp cho địa phương. Nhờ các chính sách và biện pháp thực hiện linh hoạt, nên đa số chức sắc, tín đồ đều phấn khởi, đồng tình với chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, tạo mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân cư giữa người theo đạo và không theo đạo và giữa các tôn giáo, góp phần vào việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đồng thời với việc tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân, Đảng bộ cũng chỉ đạo đấu tranh phòng, chống các phần tử lợi dụng tôn giáo, dân tộc để hoạt động trái pháp luật và gây chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng bộ chú ý tăng cường bảo đảm an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, trên cơ sở Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Đảng bộ thành phố đã ra Nghị quyết chuyên đề số 49-NQ/TXU ngày 6-2-2006 về lãnh đạo nhiệm vụ quân sự - quốc phòng địa phương năm 2006. Trong đó nêu rõ đặc điểm tình hình quân sự - quốc phòng của thành phố tại thời điểm đó và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo công tác quân sự - quốc phòng của thành phố trong thời gian tới. Trong suốt nhiệm kỳ 2005-2010, vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của cấp ủy Đảng đối với lực lượng vũ trang được đảm bảo. Đảng bộ nắm chắc mọi âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch, đồng thời phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh và ngăn chặn kịp thời có hiệu quả đối với các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng, chống phá chế độ và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ủy Quân sự và Đảng ủy Công an thành phố đã phát huy tốt chức năng tham mưu cho Thành ủy trong công tác quốc phòng, an ninh.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển rộng khắp. Đảng bộ đã chỉ đạo tăng cường công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn; đặc biệt nắm chắc các đối tượng có dấu hiệu hoạt động chính trị phản động, lợi dụng tôn giáo, dân tộc để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, kịp thời ngăn chặn có hiệu quả bọn phản động người Việt lưu vong từ nước ngoài xâm nhập, đưa người, vũ khí, tài liệu phản động vào địa bàn thành phố. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc các chế độ trực, báo cáo theo quy định, chủ động không để bất ngờ và xử lý các tình huống xảy ra nhanh, gọn, không để lây lan kéo dài và trở thành “điểm nóng”. Lực lượng vũ trang thành phố và các phường, xã, thường xuyên phối hợp hoạt động tuần tra, canh gác, phòng gian, bảo mật, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não và các công trình kinh tế, văn hóa - xã hội trọng điểm trên địa bàn, ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm, các tệ nạn xã hội... Công tác sẵn sàng chiến đấu được thực hiện nghiêm túc; công tác huấn luyện, hội thao, diễn tập hằng năm đều đạt yêu cầu; đồng thời Thành ủy cũng coi trọng chỉ đạo tổ chức diễn tập phòng, chống lụt bão, khắc phục thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.
Đảng bộ tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hành động số 41-CTr/TU ngày 29-1-2010 của Tỉnh ủy Trà Vinh nhằm tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy Đảng, cơ quan, đơn vị đối với lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên trong tình hình mới. Thành ủy cũng chỉ đạo củng cố lực lượng dân quân tự vệ, trong đó chú trọng xây dựng lực lượng dân quân trong đồng bào dân tộc, tôn giáo, bảo đảm số lượng hợp lý.
Thành ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố kịp thời sơ kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh dự bị động viên và triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm Đề án xây dựng lực lượng dự bị động viên của Thành ủy Trà Vinh giai đoạn 2006-2010 và tiếp tục thực hiện Pháp lệnh dự bị động viên; đề ra kế hoạch tổ chức đăng ký, quản lý quân dự bị hạng I, II và phương tiện kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu động viên quân đội theo chỉ tiêu trên giao, thường xuyên phúc tra nắm chắc nguồn. Do vậy, đến cuối nhiệm kỳ, lực lượng vũ trang thường trực, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ đã được xây dựng bảo đảm về số lượng và chất lượng, lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 2,65% dân số , 10/10 phường, xã đạt tiêu chuẩn vững mạnh về quốc phòng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã luôn chỉ đạo tốt công tác tuyển quân hằng năm, đưa tổng số thanh niên nhập ngũ là 475 người, đạt 100% chỉ tiêu trên giao.
Chính sách hậu phương quân đội, chính sách, chế độ đối với lực lương dự bị động viên và dân quân tự vệ được quan tâm, thực hiện tốt. Đảng bộ luôn chỉ đạo xây dựng kế hoạch huấn luyện, diễn tập vận hành cơ chế sẵn sàng chiến đấu để kịp thời đối phó có hiệu quả với mọi tình huống xảy ra trên địa bàn thành phố .
Triển khai thực hiện tốt các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, an toàn giao thông, chất lượng phong trào ngày càng được nâng lên, trật tự an toàn xã hội được ổn định, đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, làm rõ đối với các loại thường án đạt tỷ lệ 80%, phá các loại trọng án đạt tỷ lệ 100%. Có 5 phường và 65/72 khóm, ấp, trên 53% cơ quan đạt chuẩn an toàn về an ninh trật tự, trong đó có 51/72 khóm, ấp và 3 phường không có ma túy.
Đảng bộ chỉ đạo kiện toàn bộ máy tư pháp thành phố , phường, xã và thi hành án dân sự để hoạt động hiệu quả hơn, giải quyết kịp thời và dứt điểm các vụ tranh chấp khiếu kiện, các quyết định có hiệu lực của pháp luật không để kéo dài, không để thành “điểm nóng”. Các ngành thuộc khối nội chính có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ trong đấu tranh phòng chống tội phạm và xử lý các vụ án trọng điểm từ khâu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, giảm tình trạng sai sót. Thực hiện các quyết định có hiệu lực thi hành đạt 97%, số lượng thi hành án đối với những án có điều kiện thi hành được nâng lên, giải quyết 3.982/4.131 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 94,89%. Công tác giải quyết đơn khiếu kiện được quan tâm, đã giải quyết được 1.433/1.476 vụ, đạt tỷ lệ trên 99%, hạn chế được đơn tồn đọng, vượt cấp.
Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng luôn quan tâm đào tạo bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn cho cán bộ để thực hiện tốt chức năng bảo vệ và thi hành pháp luật. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và quần chúng nhân dân để nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Tuy nhiên, là một thành phố có tỷ lệ người dân tộc Khmer, Hoa tương đối cao, nhiều tôn giáo lớn cùng có mặt nên an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của thành phố còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc và việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nội bộ và nhân dân còn chưa đi vào chiều sâu. Chất lượng hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên chậm được nâng cao. Công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn từng lúc, từng nơi chưa chặt chẽ; tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Một số vụ giải quyết khiếu kiện phức tạp còn kéo dài; thi hành án dân sự còn tồn đọng khá nhiều.
Chú thích
(1) Bắt đầu từ đây, thống nhất gọi là thành phố Trà Vinh (TG.).
Tin khác
1 2 3 
TUYÊN TRUYỀN
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 21
  • Hôm nay: 89
  • Trong tuần: 3 488
  • Tất cả: 8759127

WEBSITE BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY TRÀ VINH

Trưởng Ban biên tập: Trần Quốc Tuấn

Chức vụ: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.  

Ghi rõ nguồn "Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TRÀ VINH

Địa chỉ: số 4, Nguyễn Thái Học, Khóm 4, Phường 1, Thành phố Trà Vinh

Điện thoại: 02943.853574 

Email: btgtutravinh@travinh.gov.vn

Website: tuyengiao.travinh.gov.vn