II. PHÁT HUY THÀNH QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1989-1990) (tt)

Lĩnh vực giao thông vận tải được chỉ đạo phát triển theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, công tác chỉ đạo quản lý phương tiện và cải tiến phương thức kinh doanh đã tạo điều kiện phục vụ nhân dân kịp thời, thuận tiện. Tuy nhiên, việc đầu tư phát triển giao thông, xây dựng cơ bản chưa tập trung và chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, kết cấu hạ tầng trong nội ô xuống cấp nghiêm trọng.
Hoạt động y tế trong các năm 1989-1990 có điều kiện tốt hơn để phát triển. Ngành y tế tiếp tục chuyển hướng y tế dự phòng, chú ý hơn đến chăm sóc sức khỏe ban đầu và tiêm chủng mở rộng cho trẻ em. Đảng bộ đã chỉ đạo các ban, ngành chức năng giúp đỡ để ngành y tế tập trung công tác phòng chống dịch bệnh, kịp thời dập tắt các luồng dịch xảy ra. Công tác phòng trị bệnh, giữ vệ sinh môi trường được quan tâm. Thị xã đã thực hiện tốt chương trình bảo vệ sức khỏe, tiêm chủng mở rộng và chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. Kết hợp điều trị theo cả hai phương pháp đông - tây y. Đội ngũ cán bộ y tế và thuốc men phục vụ tương đối đầy đủ, mua sắm thêm dụng cụ điều trị bệnh (máy laze). Dịch vụ y tế tư nhân có chiều hướng mở rộng để nhân dân có thêm điều kiện khám, chữa bệnh. Công tác khám và điều trị bệnh có tăng cường hoạt động cho tuyến phường, xã. Ngành y tế đã nâng cao khả năng khám và điều trị bệnh cho các trạm xá, nhất là vùng nông thôn, thực hiện tốt cấp phát thuốc theo chương trình viện trợ nhân đạo nước ngoài.
Công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch đạt kết quả đáng kể, tỷ lệ tăng dân số còn 1,9%/năm.
Tuy nhiên, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân còn nhiều hạn chế, kết quả thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ thấp so với kế hoạch. Chất lượng khám và điều trị của một số cơ sở y tế còn chưa tốt. Quản lý chưa chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều trị chưa đầy đủ và kịp thời. Bộ máy y tế ở phường, xã vẫn còn yếu, chưa bảo đảm yêu cầu phục vụ nhân dân. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trong trẻ em còn khá cao. Công tác kế hoạch hóa gia đình tuy được chú ý hơn song chưa trở thành phong trào quần chúng rộng khắp.
Ngành giáo dục được quan tâm chú ý nhiều hơn trước. Giáo dục phổ thông có nhiều tiến bộ, học sinh lên lớp ngày càng tăng, kết quả thi tốt nghiệp cả 3 cấp học (cấp I, cấp II, cấp III) hằng năm đều đạt tỷ lệ cao. Riêng Trường cấp III thị xã có 8 năm liền đạt tỷ lệ tốt nghiệp cao so với toàn tỉnh.
Đội ngũ giáo viên luôn nâng cao ý thức trách nhiệm, thể hiện lòng yêu nghề mến trẻ, nên đã góp phần hạn chế được trẻ em bỏ học. Nhìn chung, các cấp học đều đủ giáo viên giảng dạy, chất lượng dạy và học đã được nâng lên. Năm học 1989-1990, Thị ủy và chính quyền đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị, nghiệp vụ (cải cách giáo dục lớp 9) cho giáo viên. Thị xã đã sắp xếp về tổ chức, giảm biên chế văn phòng và lực lượng gián tiếp của ngành giáo dục, giải quyết chế độ hưu trí cho 94 nhân viên và giáo viên. Hoạt động giáo dục của thị xã tiếp tục có sự ổn định và đi vào nền nếp, chất lượng học tập và đạo đức học sinh được nâng lên một bước, phong trào thi đua “Hai tốt” được duy trì thường xuyên, đã xuất hiện một số điển hình tốt.
Công tác quản lý bảo hiểm học đường từng bước được thực hiện. Trường lớp hằng năm đều được sửa chữa nâng cấp và phát triển. Nhằm tạo điều kiện phục vụ học tập và giảng dạy, thị xã đã xây dựng và sửa chữa 18 phòng học (có chú ý vùng nông thôn Long Đức), xóa lớp học 3 ca, trong năm có duy trì các lớp học tình thương cho gần 300 em không có điều kiện đến trưòng. Ngoài ra, còn tổ chức điều tra hiện trạng giáo dục, mở chương trình dạy tiếng Khmer và tổ chức 6 lớp xóa mù chữ trong nhân dân. Trường cấp II xã Long Đức được xây dựng với 5 phòng học và tu sửa, mua sắm bàn ghế, tổng vốn đầu tư gần 50 triệu đồng.
Tuy nhiên, ngành giáo dục còn hạn chế, vẫn còn trẻ em bỏ học và số người mù chữ khá đông. Năm học 1989-1990 có 13.983 học sinh đến trường, so với năm học trước giảm 787 học sinh (trong đó mẫu giáo giảm 300 cháu do một số điểm lớp mẫu giáo của tập thể cơ quan đã giải thể). Thực hiện mô hình lớp bán công có 705 học sinh (khối 6 và 10), giảm 210 học sinh, một phần lớn do ảnh hưởng của đời sống khó khăn và một phần do mức thu học phí cao, nên gia đình nghèo, đông- con phải cho con thôi học để kiếm việc làm giải quyết cuộc sống gia đình. Công tác bổ túc văn hóa ở thị xã vẫn duy trì nhưng số lượng học viên giảm, chất lượng không cao. Các phường, xã có quan tâm tổ chức các lớp bổ túc văn hóa cấp I, lớp học tình thương nhưng chưa thu hút được nhiều trẻ em theo học. Việc xây dựng và phát triển nhà trẻ còn nhiều khó khăn. Thực hiện liên kết giáo dục giữa nhà trường và xã hội còn hạn chế. Đội ngũ giáo viên đa số còn khó khăn về đời sống, do đó cũng ảnh hưởng đến việc giảng dạy.
Công tác văn hóa, thông tin tuyên truyền phát triển nhằm phục vụ tuyên truyền, phổ biến nhanh các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đông đảo quần chúng nhân dân, phản ánh nguyện vọng của quần chúng đến với Đảng và Nhà nước, tạo thành nguồn thông tin hai chiều giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân nhằm góp phần chống tiêu cực, chống tham nhũng, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Đảng ủy và chính quyền chỉ đạo đưa phong trào văn hóa xuống cơ sở, tổ chức sơ kết phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới trong nhân dân. Năm 1989, có 70,7% số hộ gia đình đăng ký thực hiện theo 4 tiêu chuẩn gia đình văn hóa mới. Trong năm 1990, hưởng ứng chủ trương phát động đăng ký thực hiện gia đình văn hóa mới, thị xã đã tổ chức tuyên truyền phát động hai đợt gồm 74 cuộc, có 5.511 hộ đăng ký thực hiện, đạt 50% kế hoạch đề ra. Thị xã cũng tăng cường hoạt động văn hóa nghệ thuật, tổ chức và quản lý các loại hình văn hóa nghệ thuật như biểu diễn, sáng tác văn học nghệ thuật, hội xuân, phim ảnh, sách báo có bước phát triển. Kết hợp với tỉnh thực hiện trùng tu Đền thờ Bác xong phần trung tâm trong dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Người (19-5-1890 - 19-5-1990), đã góp phần quan trọng giáo dục truyền thống cách mạng và phẩm chất cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - thông tin được chú trọng, thường xuyên kiểm tra xử lý các sai phạm trong việc tàng trữ, lưu hành văn hóa phẩm phản động, đồi trụy. Năm 1989, thị xã triển khai thực hiện quyết định của Bộ Văn hóa về chấn chỉnh việc sử dụng đầu máy video và băng nhạc. Năm 1990, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ lành mạnh như câu lạc bộ, thi sáng tác ca khúc chính trị, trao đổi nghệ thuật... được tổ chức thường xuyên. Việc thực hiện quy chế quản lý và sử dụng phim ảnh, băng từ nhìn chung có bước ổn định.
Tuy nhiên, phát triển hoạt động văn hóa, văn nghệ cũng có nhiều khó khăn. Hoạt động chỉ đạo phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới chưa thường xuyên, liên tục, chưa đạt yêu cầu. Việc phát động đăng ký chưa đi vào chiều sâu, chưa xuống tận nông thôn, vùng đồng bào dân tộc, khâu phát động tuyên truyền còn nặng về hình thức, nhẹ về nội dung, chưa kết hợp đồng bộ giữa các đoàn thể và phường, xã. Việc quản lý, kiểm tra, truy quét văn hóa, văn nghệ đồi trụy, phản động thực hiện chưa đến nơi đến chốn. Các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan chậm được khắc phục.
Hoạt động thể dục, thể thao có nhiều cố gắng. Đảng bộ chủ trương phấn đấu giữ phong trào và nâng chất lượng thi đấu một số bộ môn như: bóng rổ, bóng bàn, bóng đá, võ thuật... Năm 1990, tổ chức Đại hội thể dục thể thao thị xã đạt kết quả tốt. Trong Đại hội thể dục thể thao toàn tỉnh lần thứ IV (năm 1990), thị xã đạt giải nhất toàn đoàn với thành tích 72 huy chương các loại. Tuy đã có nhiều thành tích được ghi nhận, nhưng phong trào thể dục, thể thao của thị xã phát triển chưa đồng bộ, việc đào tạo năng khiếu, xây dựng cơ sở vật chất cho các hoạt động thể dục, thể thao còn nhiều hạn chế.
Công tác xã hội được đẩy mạnh. Kết quả bước đầu của thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã tác động tích cực đến đời sống nhân dân thị xã, nhiều việc làm mới được tạo ra. Đời sống của người dân ở xã Long Đức và một số phường được cải thiện về điều kiện điện, nước, ăn, ở, đi lại, học hành, trị bệnh...; một số hộ dân còn có tích lũy, một bộ phận nông thôn có bước đổi mới, các tập tục lạc hậu từng bước được đẩy lùi. Mặt khác, Đảng bộ đã quan tâm thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, cấp phát tương đối kịp thời cho các đối tượng chính sách, thăm viếng tặng quà trong các dịp lễ, Tết và trợ cấp cho những trường hợp quá khó khăn. Ngành văn hóa, thể thao kết hợp với các ngành liên quan tổ chức phục vụ kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sĩ 27-7, ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, tổ chức thăm Trại an dưỡng thương, bệnh binh, viếng nghĩa trang liệt sĩ. Thực hiện Chỉ thị số 44 của Tỉnh ủy, thị xã đã vận động quyên góp xây dựng và sửa chữa 32 căn nhà tình nghĩa trị giá trên 62 triệu đồng cho các gia đình thuộc diện chính sách (trong đó cất mới 11 căn). Một số hội quần chúng còn vận động gây quỹ góp phần giải quyết phần nào khó khăn trong đời sống của một số gia đình chính sách. Năm 1989, riêng các phường, xã tổ chức họp mặt 297 thương binh, gia đình liệt sĩ, tặng quà cho 52 gia đình trị giá trên 600.000 đồng. Ngoài ra, thị xã còn nhận nhiều phần quà do sở Lao động, Thương binh và Xã hội trợ cấp cho 25 thương binh, gia đình liệt sĩ. Năm 1990, Đảng bộ đã quan tâm chỉ đạo vận dụng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ nghỉ hưu. Ngoài ra, Đảng bộ thị xã còn chỉ đạo các tổ chức đoàn thể và phường, xã tạo điều kiện giúp đỡ về đời sống cho nhân dân lao động gặp khó khăn, vùng đồng bào dân tộc Khmer.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1990 vẫn còn một bộ phận cán bộ, nhất là những người về hưu, mất sức gặp nhiều khó khăn về đời sống; số giảm biên chế vẫn chưa có việc làm ổn định. Lao động thất nghiệp khá đông. Cuộc sống của một số hộ nông dân và tầng lớp dân nghèo thành thị khá chật vật. Tình hình khó khăn đó đã làm cho tệ nạn xã hội tăng lên, số trẻ em bỏ học, suy dinh dưỡng ngày càng tăng.
Việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quân sự địa phương được chỉ đạo sát sao. Đảng bộ đã triển khai kịp thời các đợt học tập các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, các chuyên đề về quốc phòng - an ninh, đặc biệt là Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ xây dựng quốc phòng vững mạnh, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi kiểu chiến tranh có thể xảy ra. Thị xã đã cử cán bộ đi dự Hội nghị tập huấn các chuyên đề về an ninh - quốc phòng do tỉnh và quân khu tổ chức. Trên cơ sở đó, ngày 30-3-1990, Đảng bộ đã có văn bản chỉ đạo về công tác quốc phòng, an ninh như lãnh đạo diễn tập phòng thủ khu vực; về phương án chuyển địa bàn thị xã sang tình huống khi có chiến sự, có biểu tình, gây rối, bạo loạn; Văn bản ngày 9-9-1989, về kế hoạch tăng cường an ninh chính trị và Kế hoạch ngày 10-7-1990, về bảo đảm trật tự - an toàn xã hội, bảo vệ an ninh - trật tự... Các ngành, các phường, xã đã ý thức được trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang, bán vũ trang và công an trên địa bàn mình đảm trách.
Thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường chỉ đạo ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội, đồng thời thực hiện ý kiến của Đoàn chỉ đạo công tác đột xuất của Tỉnh ủy, năm 1989, Thị ủy Trà Vinh đã lập kế hoạch “Triển khai phát động về tăng cường chỉ đạo tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong thị xã”, trong đó yêu cầu: hằng ngày, Ban Chỉ đạo và cấp ủy phường, xã phải báo cáo về Thường trực Thị ủy - Ủy ban nhân dân thị xã về tình hình diễn biến ở địa phương mình. Các ban, ngành, đơn vị cùng kết hợp với phường, xã liên tục kiểm tra theo dõi khi phát hiện vấn đề gì khác thường phải báo cáo để kịp thời chỉ đạo giải quyết.
Thực hiện Nghị quyết số 02 của Trung ương, Chỉ thị số 135-CT/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Nghị quyết số 11 và 12 của Tỉnh ủy, và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã khóa V, Đảng bộ thị xã đã lãnh đạo tăng cường giữ vững nền quốc phòng toàn dân, ra sức củng cố xây dựng lực lượng công an - quân sự, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhiều tổ an ninh nhân dân, tổ tự quản được xây dựng, lực lượng công an - quân sự kết hợp mở nhiều đợt tấn công truy quét tội phạm, xóa nhiều băng trộm cắp, cướp giật, lừa đảo... thu hồi tài sản trị giá hàng trăm triệu đồng cho Nhà nước và nhân dân. Trong các năm 1988-1990, lực lượng quân sự - công an luôn có sự phối hợp, được sự hỗ trợ của các ngành và quần chúng, ta đã phát hiện bắt 02 vụ gồm 4 tên hoạt động chính trị phản động, 16 vụ với 189 người vượt biên, vượt biển, phát hiện một số người vắng mặt ở địa phương đi Campuchia lâu ngày nay trở về và có vấn đề nghi vấn, giáo dục 114 đối tượng chính trị và 346 lượt người sử dụng văn hóa phẩm đồi trụy, về trật tự xã hội, đấu tranh xử lý 489 người phạm pháp hình sự với 624 vụ, 699 người gây mất trật tự công cộng, trong đó có một số điểm (phường 7 thị xã Trà Vinh giáp xã Lương Hòa huyện Châu Thành) ban đêm thường tổ chức uống rượu gây mất trật tự. Các ngành, các cấp đã ngăn chặn, giải thích cho quần chúng về tin đồn nhảm “tháng tám uống nước mưa sẽ chết, ma quỷ xuất hiện”. Đảng bộ đã kịp thời giáo dục ngăn chặn tình trạng bọn xấu luôn tìm cách kích động, tuyên truyền chiến tranh tâm lý, gây mất trật tự (như xúi giục một số gia đình binh lính chế độ cũ làm đơn gửi qua Mỹ xin trợ cấp...). Trong tôn giáo, tăng cường tuyên truyền về giáo lý, vận động tu sửa các nhà thờ, thánh thất, chùa chiền... Trong lĩnh vực kinh tế, đã đấu tranh xử lý 49 vụ với 56 kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, bắt giữ 959 vụ với 1.246 kẻ đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép... và giáo dục 69 đối tượng kinh tế khác. Đảng bộ và từng cơ sở chú trọng giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất, tài sản trong nội bộ nhân dân. Vì vậy, tình hình an ninh trật tự từng bước được ổn định.
Hoạt động của các ngành nội chính được củng cố một bước trong việc phát huy quyền dân chủ, giải quyết nhiều đơn khiếu tố, góp phần ngăn ngừa tội phạm. Công tác pháp chế, pháp luật, xét xử được quan tâm hơn.
Nhìn chung, tình hình an ninh, trật tự xã hội chưa thật sự ổn định. Phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội còn phổ biến, một số vụ có tính nghiêm trọng song lại chưa có biện pháp tích cực chủ động ngăn ngừa. Chất lượng hoạt động của lực lượng công an - quân sự chưa cao, việc phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng cơ quan an toàn thiếu vững chắc và chưa đi vào chiều sâu. Sự phối hợp hoạt động của các ngành nội chính và phường, xã chưa đồng bộ. Việc chấp hành kỷ cương, luật pháp của một số cán bộ và nhân dân không nghiêm, một số cán bộ yếu về tinh thần trách nhiệm, thiếu kiến thức pháp luật và nghiệp vụ chuyên môn nên dẫn đến một số biểu hiện quan liêu, thiếu dân chủ đối với dân, đơn khiếu tố còn tồn đọng chưa được giải quyết đến nơi đến chốn, gây ảnh hưởng không tốt đến việc thi hành pháp luật.
Về công tác quân sự địa phương, Đảng bộ chỉ đạo khẩn trương xây dựng kế hoạch phòng thủ, xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên theo hướng xem trọng chất lượng, tiến hành cải tiến hệ thống chỉ huy, thường xuyên rèn luyện nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Chấp hành Chỉ thị số 20-CT/BBT của Ban Bí thư và kế hoạch của Tỉnh ủy cửu Long, thị xã đã thành lập xong Ban Cán sự Thị đội gồm 5 đồng chí, trong đó Bí thư Thị ủy làm Bí thư Ban Cán sự; hầu hết Bí thư Đảng ủy của 7 phường và xã Long Đức đều kiêm chính trị viên phường, xã đội; qua hoạt động đã thấy được trách nhiệm cần thiết phải trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang và xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo quan điểm của Đảng. Trong quý I năm 1990, Thị ủy Trà Vinh đã ban hành Nghị quyết về lãnh đạo diễn tập khu vực phòng thủ nhằm mục đích bồi dưỡng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức, điều hành của Nhà nước, vai trò làm tham mưu và chỉ huy thống nhất của cơ quan quân sự các ban, ngành có liên quan của thị xã và phường, xã; nâng cao trình độ nhận thức, khả năng thực hành chuẩn bị và tác chiến theo kế hoạch phòng thủ của các đơn vị vũ trang, bán vũ trang; qua thực hành diễn tập có sơ kết rút kinh nghiệm điều chỉnh bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn các phương án, kế hoạch. Lực lượng quân đội tổ chức diễn tập phòng thủ chống biểu tình, bạo loạn, phối hợp tương đối chặt chẽ giữa các ngành, địa phương, đoàn thể trong bố trí lại lực lượng trên địa bàn theo thế trận chiến tranh nhân dân đạt kết quả tốt. Qua diễn tập khu vực phòng thủ CL.90, sự chuyển biến càng rõ nét hơn. Thị xã đã có kế hoạch phòng thủ chung, kế hoạch (B) của các ngành khối Đảng, chính quyền và của cơ quan quân sự.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, Thị ủy chú trọng quán triệt các quan điểm của Đảng về quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, về kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, chú ý xây dựng và củng cố thế trận lòng dân, cơ sở chính trị ở xã, phường, ấp, khóm, nhất là trên những địa bàn xung yếu, phức tạp. Do làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân, đặc biệt là trong thanh niên về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nên trong các đợt tuyển quân hằng năm thị xã đều vượt chỉ tiêu: năm 1988 đạt 115%, năm 1989 đạt 112% và đợt I năm 1990 giạo đạt 106% chỉ tiêu cấp trên giao.
Năm 1990, Thị đội đã tổ chức nhiều đợt huấn luyện quân sự cho trên 300 lượt dân quân, tự vệ của các ban, ngành và phường, xã. Lực lượng dân quân, tự vệ kết hợp tuần tra canh gác các chốt trọng điểm. Lực lượng dân quân, tự vệ phường, xã, ấp, khóm đạt tỷ lệ 0,7% so với dân số (nếu tính cả tự vệ cơ quan ngành tỉnh, ngành thị xã so với dân số toàn thị xã thì đạt 3,2%). Mặc dù đội ngũ cán bộ có thay đổi nhiều, nhưng các nơi cũng đã kịp thời bổ sung mới ban chỉ huy có từ 2 đến 3 đồng chí.
Việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng thương binh, liệt sĩ, hưu trí... được ưu tiên giải quyết kịp thời. Tổ chức tiếp nhận chu đáo hài cốt liệt sĩ hy sinh ở chiến trường K. Đảng bộ còn chỉ đạo việc tìm kiếm quy tụ hài cốt liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến còn rải rác bên ngoài vào nghĩa trang, đồng thời đầu tư xây dựng cơ bản 500 mộ liệt sĩ với kinh phí gần 40 triệu đồng. Thị xã cũng tích cực giải quyết các tồn đọng về chính sách của các thời kỳ. Trong các năm 1988-1990, thị xã đã xây dựng được 30 căn nhà tình nghĩa trị giá gần 100 triệu đồng, các cơ sở cũng đã tự lực vận động, giúp đỡ cất sửa nhà cửa cho những đối tượng gặp khó khăn, chăm lo giúp đỡ tạo việc làm các chiến sĩ đã tham gia làm nghĩa vụ quốc tế ở nước bạn Campuchia và số con em của địa phương hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Trong các ngày lễ, Tết đều tổ chức họp mặt, thăm viếng, tặng quà cho một số đối tượng quá khó khăn.
Trong nhiệm kỳ 1986-1991, ở tỉnh Cửu Long, quá trình đấu tranh đánh địch giữ gìn an ninh - trật tự, Tỉnh đã phạm sai lầm nghiêm trọng, vi phạm chính sách dân tộc, tôn giáo, làm oan sai một số cán bộ, đồng bào và chư tăng Khmer. Sau khi có kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cửu Long đã đề ra Kế hoạch số 19-KH/TU về việc tiếp tục sửa sai vụ án KC50. Tỉnh đã phải tập trung nhiều thời gian, công sức và tiền của để sửa sai mới và khôi phục lại được lòng tin của cán bộ, sư sãi và đồng bào Khmer đối với Đảng mà trực tiếp là đối với Tỉnh ủy. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Trà Vinh đã phối hợp chặt chẽ với tỉnh trong quá trình thực hiện Kế hoạch số 19-KH/TU.
Các năm 1988-1990, mặc dù Thị ủy đã tập trung lãnh đạo công tác an ninh - quốc phòng đạt được một số kết quả quan trọng, song vẫn còn một số thiếu sót: việc quán triệt các nghị quyết, chỉ thị cấp trên chưa được sâu rộng và liên tục; nhận thức và ý thức cảnh giác trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị và quần chúng nhân dân còn nhiều sơ hở; phong trào quần chúng chưa rộng, chưa mạnh; số lượng và chất lượng dân quân tự vệ còn quá thấp; số lượng quân dự bị động viên cũng còn thấp; chất lượng tuyển quân nói chung chưa tốt; tư tưởng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên còn mất cảnh giác, mơ hồ về bản chất và những âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch...
Công tác vận động quần chúng ngày càng được chú trọng. Trong những năm đầu đổi mới, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị ở địa phương đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của mình thông qua việc học tập các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị. Quán triệt và xây dựng chương trình hành động đối với từng ngành, từng giới để tổ chức tuyên truyền, động viên, giáo dục mọi tầng lớp hăng hái tham gia các cuộc vận động và các hoạt động thiết thực nhằm giúp nhau phát triển sản xuất và nâng cao đời sống. Qua đó, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ V đề ra. Nội dung và phương thức tập hợp quần chúng bước đầu có cải tiến, từng bước giải quyết hài hòa giữa nhiệm vụ và quyền lợi, thu hút quần chúng vào các tổ chức quần chúng và có ý thức tự chủ trong hoạt động thực tiễn. Không khí sinh hoạt dân chủ trong xã hội đã được khơi dậy. Hoạt động của bộ máy chính quyền và đoàn thể trong hệ thống chính trị cũng có những chuyển biến tích cực. Ngày 9-2-1990, Thị ủy đã ban hành Kế hoạch phát động thi đua tạo cơ sở cho công tác vận động quần chúng đi vào chiều sâu.
Các tổ chức đoàn thể được củng cố, chất lượng hoạt động của đoàn viên, hội viên được nâng lên, trong chỉ đạo có chọn điểm, diện, tăng cường cán bộ xuống cơ sở và phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan.
Đảng bộ đã chỉ đạo tổ chức triển khai học tập các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhất là tổ chức học tập sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng về Nghị quyết 8B của Trung ương Đảng, tổng số tổ chức được trên 4.000 cuộc, có 100 nghìn lượt người tham dự. Qua học tập, đại bộ phận quần chúng nhân dân nắm được tình hình diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước, thấy rõ âm mưu thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, đồng thời củng cố nhận thức và đánh giá đúng đắn những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được sau 15 năm thống nhất đất nước, cũng như những thiếu sót trong chỉ đạo mà Đảng đang tập trung khắc phục, sửa chữa. Từ đó, củng cố thêm sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết 8B về đổi mới công tác vận động quần chúng đã thổi luồng gió mới vào hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của thị xã Trà Vinh trong việc định hướng xây dựng chương trình hành động, động viên nhân dân tích cực tham gia công cuộc đổi mới. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp thị xã và phường, xã đã tổ chức đóng góp ý kiến vào nghị quyết công tác dân vận của Tỉnh ủy, kiểm điểm công tác dân vận của thị xã trong thời gian qua, chuẩn bị đề án công tác vận động quần chúng của thị xã cho thời gian tới; đồng thời xây dựng tinh thần đoàn kết trong dân tộc và tôn giáo. Ngày 6-11-1990, Thị ủy tiếp tục ban hành văn bản về thực hiện đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng. Qua phong trào cách mạng ở địa phương, các tổ chức quần chúng được củng cố đã tập hợp phát triển được 1.248 đoàn viên, hội viên (trong đó có 152 đoàn viên thanh niên).
Trong năm 1989, Thị ủy chỉ đạo tiếp tục tuyên truyền, phát động học tập rộng rãi trong quần chúng nhân dân các chỉ thị, quyết định về giải quyết tranh chấp ruộng đất gắn với triển khai đề án công tác vận động quần chúng của thị xã. Quý IV năm 1989, Thị ủy tập trung chỉ đạo thành công Đại hội Phụ nữ Việt Nam thị xã, Đại hội Đoàn Thanh niên thị xã, Đại hội Hội Nông dân Việt Nam thị xã và Đại hội Mặt trận Tổ quốc thị xã nhiệm kỳ 1990-1993.
Mặc dù nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có cải tiến một bước, nhưng chưa theo kịp yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Các đoàn thể tuy đông nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, lề lối làm vỉệc chưa đi sát quần chúng. Một số ít chi ủy chưa thấy hết tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng, chưa thường xuyên kiểm tra, góp ý cho đoàn thể hoạt động, còn khoán trắng cho chuyên môn, thiếu lựa chọn, đào tạo cán bộ đoàn thể, thiếu quan tâm củng cố tổ chức bộ máy đoàn thể. Cán bộ làm công tác đoàn thể còn hạn chế, thiếu nhiệt tình, chưa thật sự đóng vai trò nòng cốt trong phong trào, không bảo đảm sinh hoạt thường kỳ.
Công tác xây dựng và củng cố chính quyền luôn được Thị ủy quan tâm, tổ chức bộ máy ủy ban nhân dân thị xã được củng cố. Nhìn chung, chính quyền các cấp đã phát huy được hiệu lực quản lý và điều hành trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Đảng bộ đã tổ chức học tập trong nội bộ Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 2-8-1989 của Ban Bí thư, chương trình của Tỉnh ủy và kế hoạch của Thị ủy về lãnh đạo cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp vào tháng 11 năm 1989. Thị xã đã thành lập Ban chỉ đạo và Hội đồng bầu cử thị xã theo đúng quy định của pháp luật và đã tiến hành các bước hiệp thương theo quy định, phân bổ cụ thể số lượng ứng cử viên cho các cơ sở lập danh sách cử tri để niêm yết. Kết quả bầu cử đã đạt được đúng yêu cầu về số lượng đại biểu và cơ cấu đại biểu. Hội đồng nhân dân thị xã tiến hành sinh hoạt thường xuyên, nhiều đại biểu phát huy được vai trò và trách nhiệm của mình trong bàn bạc và quyết định nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thị xã. Hoạt động của Hội đồng nhân dân các phường, xã nói chung có nhiều cố gắng, nhưng hoạt động còn lúng túng, chưa thực sự phát huy được tác dụng của mình.
Ủy ban nhân dân thị xã đã có nhiều biện pháp tích cực chỉ đạo mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào những vấn đề trọng tâm như xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, trật tự trị an,... góp phần làm cho tình hình kinh tế - xã hội của thị xã có những chuyển biến rõ rệt. Ủy ban nhân dân các phường, xã đã từng bước khắc phục kiểu lãnh đạo hành chính quan liêu, chuyển sang chỉ đạo cụ thể, bước đầu bám sát nhiệm vụ xây dựng kinh tế phường, xã... Tuy nhiên, việc triển khai một số chủ trương của cấp trên còn chậm, quản lý chuyên môn còn chưa chặt chẽ, chức trách của từng cá nhân chưa rõ.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng thường xuyên. Từ khi đổi mới, không khí dân chủ trong Đảng được mở rộng đã khơi dậy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Công tác thông tin nội bộ được tổ chức khá hơn trước, đặc biệt là công tác tổ chức sinh hoạt chính trị trong Đảng cũng như tổ chức cho quần chúng nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền. Những thành quả bước đầu nhờ thực hiện đường lối đổi mới cùng với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với yêu cầu phát triển đã góp phần quan trọng làm cho tư tưởng cán bộ, đảng viên dần dần ổn định, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới.
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Đảng bộ đã quán triệt và vận dụng thực hiện có kết quả từng bước phương hướng phát triển của thị xã mà Đại hội Đảng bộ thị xã khóa V đã đề ra, bước đầu khắc phục được những khuyết điểm tồn tại trong nhiệm kỳ 1986-1988, kiến thức và năng lực lãnh đạo, điều hành trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội từng bước được nâng lên.
Việc triển khai học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của trên, nhất là Nghị quyết 8B của Trung ương Đảng, Chỉ thị số 59-CT/TW, Kế hoạch số 25 của Tỉnh ủy trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, đã làm chuyển biến về nhận thức tư tưởng của cán bộ, đảng viên, củng cố quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, thấy được vai trò và trách nhiệm của người đảng viên trong tình hình mới, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng. Đảng bộ đã có nhiều cố gắng trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 1990, nhất là tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh xây dựng nội bộ, chống những biểu hiện lệch lạc.
Công tác tổ chức cán bộ có bước đổi mới. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ tập trung chỉ đạo sắp xếp lại bộ máy, giảm bớt số phòng, ban và giải thể các công ty kinh doanh của phường, xã, xét giảm biên chế 762 cán bộ, công nhân viên. Mạnh dạn điều chỉnh lại, phân công nhiệm vụ đối với 46 cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt các ban, ngành và cơ sở phù hợp với trình độ, năng lực, qua đó nhiều đồng chí đã phát huy được vai trò và khả năng của mình.
Đảng bộ quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, phân công các đồng chí cấp ủy viên và cán bộ có năng lực trực tiếp chỉ đạo các chi bộ, từng bước khắc phục những cơ sở yếu kém, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên, tuy tình hình khó khăn phức tạp nhưng đa số tổ chức cơ sở đảng được giữ vững và phát triển. Công tác quy hoạch cán bộ và bồi dưỡng đối tượng phát triển Đảng được Đảng bộ quan tâm. Trong nhiệm kỳ 1988-1990, đã cử 12 cán bộ đi học tại trường Đảng của Trung ương và của tỉnh. Công tác phát triển Đảng luôn được Đảng bộ chú ý, đã xét kết nạp được 85 đảng viên mới.
Đảng bộ thực hiện công tác tự phê bình và phê bình, xét tư cách đảng viên theo định kỳ, thực hiện cuộc vận động làm trong sạch Đảng, đặc biệt là tổ chức Đại hội vòng I Đảng bộ Thị xã. Qua đợt sinh hoạt chính trị, chất lượng cơ sở đảng và đảng viên được củng cố, trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức của đảng viên được nâng lên, một số chi bộ, Đảng bộ từ yếu kém được nâng lên trung bình hoặc khá. Cuối năm 1990, kết quả phân loại cơ sở đảng có 9/38 cơ sở đạt vững mạnh, 14/38 cơ sở đạt khá, 12/38 cơ sở đạt trung bình và 3/38 cơ sở yếu kém. Về kết quả xếp loại đảng viên, trong số 834 đồng chí được xếp loại (chiếm 90% tổng số đảng viên toàn Đảng bộ), kết quả chấp hành tốt có 617 đồng chí, chấp hành chưa tốt có 208 đồng chí và 9 đồng chí yếu kém cần xem xét tư cách.
Tập thể Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Thị ủy làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền dân chủ trong Đảng, lắng nghe ý kiến bên dưới và phản ảnh của quần chúng. Trong chỉ đạo từng lĩnh vực có sơ kết rút kinh nghiệm và đề ra kế hoạch chỉ đạo thời gian tiếp theo.
Tuy có nhiều thành tích trong công tác xây dựng Đảng, song thị xã vẫn còn nhiều thiếu sót: Chỉ đạo công tác tư tưởng chưa thực sự đi vào chiều sâu, từng lúc còn buông lỏng. Một số cấp ủy, nhất là ngành kinh tế, chưa tích cực củng cố chi bộ và đảng viên, chậm khắc phục tư tưởng bi quan, thiếu niềm tin, thờ ơ vô trách nhiệm của một bộ phận đảng viên, một số trường hợp tiêu cực giải quyết chưa kịp thời. Công tác tổ chức bộ máy chưa đạt yêu cầu đề ra, chất lượng tổ chức cơ sở đảng tuy được nâng lên nhưng chưa tạo được mô hình để nhân rộng, vẫn còn 3 cơ sở yếu kém. Một số cấp ủy chỉ đạo thiếu kiểm tra, đôn đốc hoặc bao biện làm thay các mặt công tác của chính quyền và đoàn thể. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế mới và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, tình trạng cán bộ ở cơ sở thiếu và yếu, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc phát triển không kịp nhu cầu. Trong chỉ đạo phát triển kinh tế theo cơ chế mới còn lúng túng, không đồng bộ, để thua lỗ kéo dài đã tác động đến tư tưởng nội bộ và quần chúng. Việc kiểm tra, phân loại đảng viên tiến hành chậm. Một bộ phận đảng viên có tư tưởng lệch lạc, giảm sút ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm yếu, xử lý chưa kịp thời.

 

Năm năm đầu thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng và lãnh đạo là thời gian đầy khó khăn, thử thách. Kinh tế thị xã ở trong tình trạng khủng hoảng, thiếu nguyên, nhiên, vật liệu trầm trọng, sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã, lại bị các thế lực thù địch chống phá về nhiều mặt. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Cửu Long, Đảng bộ thị xã đã lãnh đạo nhân dân thị xã đoàn kết, phấn đấu, khắc phục khó khăn, đầu tư công sức và tiền của để phát triển sản xuất, tìm cách thoát khỏi khủng hoảng, góp phần ổn định xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh và trật tự - an toàn xã hội. Trong giai đoạn này, mặc dù thời tiết không thuận lợi, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và lạc hậu, nhưng cơ cấu kinh tế đã dần chuyển dịch theo hướng tiến bộ, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp dần được thay thế bằng sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần, nhiều mặt hàng do các cơ sở của thị xã sản xuất ra, đã đáp ứng một phần nhu cầu của nhân dân thị xã, góp phần giải quyết một bước quan trọng về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; các hoạt động văn hóa, thông tin, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao… được duy trì và có bước phát triển. Hoạt động của Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể có sự đổi mới, tiến bộ. Kết quả của 5 năm thực hiện đường lối đổi mới là cơ sở giúp cho Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh vững tin hơn vào đường lối đổi mới của Đảng và tiếp tục phát huy trong giai đoạn tiếp theo. Những thành tích và tồn tại trong giai đoạn 1986-1990 đã giúp Đảng bộ và nhân dân thị xã Trà Vinh rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu để cùng nhân dân toàn tỉnh và cả nước vượt qua những khó khăn, thách thức, tiếp tục thực hiện thành công công cuộc đổi mới.

Tin khác
1 2 3 
TUYÊN TRUYỀN
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 10
  • Hôm nay: 151
  • Trong tuần: 3 550
  • Tất cả: 8759189

WEBSITE BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY TRÀ VINH

Trưởng Ban biên tập: Trần Quốc Tuấn

Chức vụ: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.  

Ghi rõ nguồn "Trang tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Trà Vinh" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Chung nhan Tin Nhiem Mang

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ TRÀ VINH

Địa chỉ: số 4, Nguyễn Thái Học, Khóm 4, Phường 1, Thành phố Trà Vinh

Điện thoại: 02943.853574 

Email: btgtutravinh@travinh.gov.vn

Website: tuyengiao.travinh.gov.vn